Đánh giá các tiêu chí cần đạt được để TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế

Phạm Hoàng Anh Thư
Vũ Hoàng Quyền
Dương Quyền Huy
Trần Quỳnh Châu
PGS.TS. Nguyễn Anh Phong
Trường Đại học Kinh tế Luật, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết nghiên cứu dựa trên các chỉ số, nhóm chỉ số đánh giá về trung tâm tài chính quốc tế trên thế giới bao gồm các nhóm chỉ số, như: về nhân lực, hạ tầng, môi trường kinh doanh và về thị trường tài chính cũng như các dịch vụ tài chính. Dựa trên việc phân tích đối sánh các nhóm chỉ số này ở các trung tâm tài chính quốc tế ở châu Á, như: Hong Kong và Singapore và đề xuất các chính sách, biện pháp, lộ trình để TP. Hồ Chí Minh có thể đạt được theo từng chỉ số, từ đó có chiến lược và định hướng phát triển.

Từ khóa: Trung tâm tài chính quốc tế, các chỉ số của trung tâm tài chính quốc tế.

1. Đặt vấn đề

Trung tâm tài chính quốc tế (IFC-International Financial Centre) đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và vị thế toàn cầu của một quốc gia. Mô hình này được hình thành do nhu cầu phát triển tất yếu và sự lớn mạnh của một nền kinh tế gắn với các hoạt động giao thương, công nghiệp, thị trường vốn và các dịch vụ phụ trợ khác. IFC giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển thị trường vốn và xuất khẩu dịch vụ tài chính,… đồng thời, kích thích các ngành liên quan.

Về mặt xã hội, IFC thúc đẩy đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, khuyến khích đổi mới công nghệ, đặc biệt phát triển trong lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech). Hơn nữa, trung tâm tài chính quốc tế còn giúp đa dạng hóa nền kinh tế, tăng cường ổn định tài chính cũng như gia tăng sức ảnh hưởng địa chính trị. Tuy nhiên, để xây dựng và phát triển IFC thì đây hoàn toàn không phải là một điều dễ dàng.

Thông báo số 47-TB/TW ngày 15/11/2024 của Bộ Chính trị đã đồng ý chủ trương thành lập trung tâm tài chính quốc tế toàn diện tại TP. Hồ Chí Minh và trung tâm tài chính khu vực tại Đà Nẵng. Thủ tướng Chính phủ cũng khẳng định, Việt Nam đang có đủ 5 yếu tố, điều kiện cần thiết để phát triển thị trường tài chính hiện đại, hướng đến hình thành trung tâm tài chính quốc tế và khu vực.

Việc sớm phát triển trung tâm tài chính quốc tế và khu vực có ý nghĩa, tác động tích cực giúp Việt Nam kết nối thị trường tài chính toàn cầu; thu hút các tổ chức tài chính nước ngoài, tạo thêm nguồn lực mới, thúc đẩy nguồn lực hiện hữu; tận dụng cơ hội dịch chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế để phát triển kinh tế – xã hội; thúc đẩy phát triển thị trường tài chính Việt Nam hiệu quả, theo chuẩn mực quốc tế; tạo ra động lực mới, tạo sự đột phá về phát triển.

2. Cơ sở lý luận về trung tâm tài chính quốc tế

Trung tâm tài chính thường đóng tại một thành phố và có các đặc điểm, như: tập trung nhiều tổ chức tài chính, cung cấp nhiều loại dịch vụ tài chính đa dạng (ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư…); là nơi tập trung giao dịch của nhiều thị trường tài chính (chứng khoán, ngoại hối, thị trường vốn, trái phiếu, hàng hóa…). Các trung tâm tài chính quốc tế có thể được chia thành 3 loại:

Thứ nhất, trung tâm tài chính quốc tế có quy mô toàn cầu (International Financial Center – IFC hay Global Financial Center – GFC), ví dụ như New York hay London là những Trung tâm kinh tế tài chính lớn với đầy đủ các dịch vụ tài chính, ở đó có thể tiếp cận trực tiếp các nguồn vốn lớn từ các ngân hàng, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, và thị trường vốn niêm yết… IFC phục vụ các giao dịch tài chính trong nước và toàn cầu. 

Thứ hai, trung tâm tài chính quốc tế có quy mô khu vực (Regional Financial Center – RFC), ví dụ như Singapore hay Hong Kong, cũng giống như những trung tâm tài chính quốc tế, tuy nhiên nền kinh tế và thị trường tài chính trong nước nhỏ hơn, phục vụ các giao dịch tài chính có tính chất khu vực của các khách hàng nước ngoài nhiều hơn là khách hàng trong nước. 

Thứ ba, trung tâm tài chính nước ngoài (Offshore Financial Centres – OFC), ví dụ như quần đảo Cayman, thường là nơi có các chính sách về thuế thuận lợi, phục vụ chủ yếu cho các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thực hiện các giao dịch liên quan đến thuế (cũng thường được gọi là thiên đường thuế). Một số RFC như của Singapore cũng có các chính sách thuế ưu đãi nên cũng được xem là OFC.

Các tiêu chí để trở thành một trung tâm tài chính quốc tế gồm: chỉ số về môi trường kinh doanh bảo đảm hai chỉ số chính là “Dễ dàng kinh doanh” và “Nhận thức tham nhũng”; chỉ số về dễ dàng kinh doanh gồm 3 trụ cột: khung pháp lý, dịch vụ công và hiệu quả hoạt động; chỉ số về cơ sở hạ tầng gồm chỉ số sẵn sàng kết nối mạng (NRI), chỉ số hiệu quả Logistics (LPI); chỉ số về dịch vụ tài chính gồm vốn hóa thị trường, phát triển thị trường trái phiếu; chỉ số về nguồn lực như lao động có trình độ chuyên môn cao, tỷ lệ người học đại học.

3. Đánh giá một số điều kiện để TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế

TP. Hồ Chí Minh nổi bật với chỉ số quản trị điện tử, đạt 3,97 điểm, chỉ thấp hơn một chút so với mức 4,29 của tỉnh dẫn đầu, cho thấy sự tiến bộ trong ứng dụng công nghệ số vào quản lý hành chính – một yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó, chỉ số thủ tục hành chính công cũng là một lợi thế khi đạt 7,05 điểm, khá sát với mức 7,64 của tỉnh cao nhất, thể hiện sự cải thiện đáng kể trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, đáp ứng yêu cầu của một trung tâm tài chính quốc tế. Tuy nhiên, TP. Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều điểm yếu cần cải thiện. Chỉ số CPI trong khu vực công chỉ đạt 6,63 điểm, thấp hơn đáng kể so với mức 8,15 của tỉnh dẫn đầu, do đó ảnh hưởng đến niềm tin của các tổ chức tài chính quốc tế. Tương tự, chỉ số công khai, minh bạch đạt 5,15 điểm, dù cao hơn một số tỉnh khác nhưng vẫn kém xa mức 5,88 của tỉnh dẫn đầu, làm hạn chế khả năng xây dựng hình ảnh một thành phố đáng tin cậy. Trách nhiệm giải trình với người dân cũng là một nhược điểm khi chỉ đạt 4,30 điểm, so với 4,66 của tỉnh cao nhất, cho thấy cần tiếp tục nâng cao việc lắng nghe và phản hồi ý kiến từ cộng đồng. Đặc biệt, chỉ số cung ứng dịch vụ công đạt 7,53 điểm, thấp hơn mức 8,30 của tỉnh dẫn đầu và quản trị môi trường chỉ đạt 2,96 điểm, so với 4,29 của tỉnh cao nhất, cho thấy TP. Hồ Chí Minh chưa đáp ứng tốt yêu cầu về phát triển bền vững – một tiêu chí ngày càng được các nhà đầu tư quốc tế chú trọng.

Sự tham gia của người dân ở cấp cơ sở rất thấp, chỉ đạt 4,61 điểm, so với 5,91 của tỉnh dẫn đầu, tiềm ẩn nguy cơ thiếu sự đồng thuận xã hội, có thể ảnh hưởng đến sự ổn định lâu dài. Để đạt mục tiêu trở thành trung tâm tài chính quốc tế, TP. Hồ Chí Minh cần duy trì và phát huy thế mạnh về quản trị điện tử và thủ tục hành chính công, đồng thời tập trung cải thiện các chỉ số còn thấp như công khai minh bạch và quản trị môi trường thông qua các chính sách cụ thể, đầu tư hạ tầng số; khuyến khích sự tham gia của người dân nhằm tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững và cạnh tranh trên trường quốc tế.

Để TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế (IFC), việc chuyển đổi từ chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS) sang chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IFRS) là yếu tố cốt lõi, bởi VAS chỉ có 26 chuẩn mực, thiếu nhiều quy định quan trọng như IFRS 9 (công cụ tài chính) hay IFRS 15 (doanh thu), trong khi IFRS với 57 chuẩn mực đảm bảo tính minh bạch và tương thích toàn cầu. Hiện tại, theo báo cáo VAA 2025, chỉ 20% doanh nghiệp niêm yết tại HOSE áp dụng IFRS, còn 80% vẫn dùng VAS, cho thấy khoảng cách lớn so với các IFC như Singapore (100% IFRS).

Tính đến cuối năm 2024, với 393 mã cổ phiếu niêm yết, giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu sàn HOSE khoảng 208 tỷ USD chiếm hơn 93% tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu niêm yết toàn thị trường (bao gồm cả HNX và UPCoM). HOSE tập trung nhiều doanh nghiệp đầu ngành như Vietcombank (VCB), BIDV (BID), Vingroup (VIC), hay Vinamilk (VNM) với 40 doanh nghiệp có vốn hóa trên 1 tỷ USD, cho thấy không chỉ có quy mô vốn hóa thị trường áp đảo thị phần trong nước mà còn là nơi thu hút nhiều doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế, đặc biệt các ngành chủ chốt như ngân hàng, bất động sản và công nghệ. Hạn chế lớn, đó là vốn hóa của ngành ngân hàng chiếm quá nhiều, con số này chiếm khoảng 40% vốn hóa sàn HOSE.

Mặc dù, ngân hàng là nền tảng vững chắc để giúp phát triển các loại hình doanh nghiệp khác nhưng điều này đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng bị phụ thuộc quá mức vào một ngành. Điều này có thể khiến hạn chế tiềm năng tăng trưởng trong dài hạn do khiến thị trường kém cạnh tranh. Điều này cũng gia tăng rủi ro khủng hoảng tài chính nếu có bất kỳ vấn đề nào trong ngành này. Hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài thường tìm kiếm thị trường có sự cân bằng giữa các ngành. Nếu HOSE quá nghiêng về ngân hàng, họ sẽ e ngại về rủi ro tập trung và chuyển hướng sang các thị trường khác có cơ cấu đa dạng hơn.

Dựa vào dữ liệu đã thu thập, cho thấy tỷ lệ tốt nghiệp đại học tại Việt Nam những năm gần đây thấp hơn hẳn so với các nước lớn trong khu vực, như: Thái Lan, Indonesia. Khoảng cách này còn nới rộng hơn khi so với Trung Quốc và còn kém xa so với 1 trung tâm tài chính quốc tế như Singapore. Điều này đặt ra thách thức lớn về nguồn cung nhân lực chất lượng cao nội địa. Chính vì vậy, để có thể sớm đạt được tiêu chí giúp TP. Hồ Chí Minh trở thành một trung tâm tài chính quốc tế cần phải đẩy mạnh chất lượng giáo dục và đào tạo.

Năm 2023, tỷ lệ tốt nghiệp đại học của Thái Lan và Indonesia vào khoảng 30%, vì vậy để có thể ngang bằng với các nước khu vực, tỷ lệ tốt nghiệp đại học của Việt Nam phải vào khoảng 33 – 35% vào năm 2030. Với mức tăng không đổi khoảng 2%/năm, con số này cần đạt được hơn 50% vào năm 2040. Bên cạnh việc gia tăng nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần đẩy mạnh những chính sách nhằm thu hút nhân tài từ nước ngoài đặc biệt trong các lĩnh vực về tài chính và công nghệ. Việt Nam được xếp hạng thứ 43 trong 154 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng với mức điểm 3,3 so với 2,89 điểm vào năm 2007, điều này cho thấy, Việt Nam có sự cải thiện nhẹ về năng lực logistics. Nhưng khi so sánh với các quốc gia và vùng lãnh thổ phát triển khác thì số điểm này của Việt Nam hoàn toàn khiêm tốn, khi mà Singapore với mức điểm 4,3, HongKong là 4 điểm và Luxembourg là 3,6 điểm. Điều này cho thấy, mức độ hiệu quả logistics của Việt Nam nói chung và đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh nói riêng còn ở mức thấp, nếu TP. Hồ Chí Minh mong muốn trở thành một trung tâm tài chính quốc tế thì cần phải đưa ra các giải pháp phù hợp để nâng cao 6 tiêu chí mà chỉ số LPI đề ra.

Theo báo cáo về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, năm 2019, TP. Hồ Chí Minh đạt 0,5704 điểm với mức hạng thứ 7, năm 2020 đạt 0,5852 điểm với hạng 5, năm 2022 đạt hạng thứ 11 với 0,5588 điểm và vào năm 2023 trong Top 14 tỉnh thành được xếp hạng có điểm số cao nhất thì không có sự góp mặt của TP. Hồ Chí Minh. Như vậy, mặc dù mức độ phát triển về công nghệ thông tin tại TP. Hồ Chí Minh có tăng, nhưng tăng không đáng kể so với các tỉnh thành khác. Nguyên nhân là do nguồn nhân lực ICT, đặc biệt là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, an ninh mạng của Thành phố chưa đáp ứng được nhu cầu. Điều này một phần do sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty quốc tế và xu hướng “chảy máu chất xám” ra nước ngoài. Ngoài ra, khi xét về tiêu chí ứng dụng công nghệ thông tin, TP. Hồ Chí Minh được xem là đầu tàu kinh tế, tuy nhiên việc triển khai các dịch vụ công trực tuyến vẫn còn chậm và thiếu đồng bộ. Nguyên nhân là do hệ thống quản lý khá phức tạp, số lượng hồ sơ lớn và sự phối hợp giữa các sở ban ngành chưa hiệu quả.

4. Một số khuyến nghị

(1) Về nguồn nhân lực.

Để đáp ứng nhu cầu nhân sự chất lượng cao trong lĩnh vực tài chính, công nghệ tài chính,… cần triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu. Các chương trình này có thể là hợp tác giữa chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức giáo dục nhằm cung cấp các khóa học về tài chính quốc tế, quản lý rủi ro, phân tích dữ liệu, công nghệ tài chính,…

(2) Về môi trường kinh doanh. 

Để có thể thu hút các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và các ngành liên quan đặt trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh, cần phải xem xét việc tích hợp trung tâm kinh doanh với các ưu đãi về thuế, tiền thuê trong giai đoạn đầu… Xây dựng khung pháp lý đặc thù và một cơ quan quản lý độc lập cho trung tâm tài chính quốc tế TP. Hồ Chí Minh. Cần phải có các chính sách khuyến khích đầu tư gián tiếp thông qua việc mua các sản phẩm tài chính, ủy thác đầu tư cho bên thứ ba. TP. Hồ Chí Minh cần nghiên cứu, xem xét việc mở rộng các công cụ tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, đồng thời xây dựng các chính sách, khung pháp lý để kiểm soát phù hợp.

TP. Hồ Chí Minh phải thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế để đảm bảo môi trường kinh doanh minh bạch và công bằng, cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế này phải hiệu quả, chẳng hạn như thành lập trung tâm trọng tài quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh chuyên giải quyết các vấn đề liên quan đến các hoạt động đầu tư, giao dịch, mua bán,… tại IFC. Cần thiết lập các quy định, yêu cầu rõ ràng đối với các công ty có hoạt động kinh doanh tại TP. Hồ Chí Minh nhưng không đặt trụ sở chính tại đây. Điều này giúp đảm bảo tính minh bạch, tránh các vấn đề liên quan đến thuế và nghĩa vụ pháp lý,… từ đó tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cần thành lập một cơ quan đăng ký doanh nghiệp chuyên trách. Cơ quan này sẽ có chức năng chính là tư vấn, tiếp nhận, xem xét và xử lý tất cả các đơn đăng ký của các doanh nghiệp tiềm năng muốn hoạt động tại TP. Hồ Chí Minh.

Việt Nam cần công khai thông tin đấu thầu, ngân sách và quản lý đất đai trên các cổng thông tin dễ tiếp cận, ứng dụng công nghệ blockchain để đảm bảo dữ liệu không thể thay đổi và thực thi nghiêm Luật Tiếp cận Thông tin năm 2016, học hỏi từ Singapore với hệ thống GeBiz minh bạch. Tăng trách nhiệm giải trình bằng cách công khai kê khai tài sản quan chức, thành lập cơ quan chống tham nhũng độc lập như CPIB của Singapore và xử lý nghiêm các vi phạm để tăng tính răn đe.

Thay đổi văn hóa quản trị khép kín thông qua đào tạo quan chức, khuyến khích công khai thông tin mặc định và nâng cao nhận thức công dân về quyền tiếp cận thông tin. Cải thiện thực thi luật bằng cách đào tạo điều tra viên, tăng hình phạt tham nhũng. Ổn định pháp luật bằng cách giảm tần suất sửa đổi luật (hiện 3-5 năm/lần) xuống 1 lần/10 năm và tăng chất lượng soạn thảo luật qua việc tham vấn chuyên gia. Bảo đảm độc lập tư pháp, phân quyền giữa các nhánh quyền lực và trao tự chủ cho địa phương với sự giám sát chặt chẽ nhằm giảm lạm quyền và tham nhũng.

(3) Về cơ sở hạ tầng.

Để nâng cao tính cạnh tranh trong lĩnh vực logistics, TP. Hồ Chí Minh cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, như: trí tuệ nhân tạo hay blockchain trong quản lý chuỗi cung ứng, đồng thời triển khai nền tảng kết nối logistics số giúp doanh nghiệp, cảng, kho bãi và cơ quan quản lý hoạt động hiệu quả hơn. Việc áp dụng công nghệ hiện đại để theo dõi vị trí và tình trạng hàng hóa theo thời gian thực cũng là một giải pháp quan trọng giúp tối ưu hóa chuỗi cung ứng.

TP. Hồ Chí Minh cần đẩy mạnh xây dựng đô thị thông minh thông qua việc phát triển chính quyền số, ứng dụng công nghệ blockchain trong quản lý hành chính công và dịch vụ công trực tuyến. Thành phố cũng cần đầu tư vào xây dựng trung tâm dữ liệu lớn để tích hợp dữ liệu từ nhiều lĩnh vực như giao thông, y tế, giáo dục,… nhằm hỗ trợ công tác quản lý đô thị. TP. Hồ Chí Minh cũng cần ứng dụng công nghệ số trong quản lý đô thị và logistics, bao gồm xây dựng hệ thống giao thông thông minh với AI và IoT để điều phối giao thông và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số trong quản lý kho bãi, vận tải và thanh toán điện tử.

(4) Cung cấp các dịch vụ tài chính và phi tài chính.

TP. Hồ Chí Minh cần khuyến khích sự phát triển của các loại quỹ nhằm mục đích tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính và cá nhân có tài sản lớn đầu tư vào các chiến lược giao dịch phức tạp nhằm tối ưu hóa lợi nhuận. Quỹ bất động sản để phát triển thị trường bất động sản thông qua các quỹ đầu tư minh bạch, giúp tăng cường tính thanh khoản trong lĩnh vực này. Ngoài ra, cần đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm mục tiêu hỗ trợ sự phát triển của các sản phẩm tài chính phái sinh và các công cụ tài chính khác nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư.

Thúc đẩy, phát triển dịch vụ ngân hàng, cần mở rộng chính sách cho phép mở tài khoản ngoại hối giúp nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng tiếp cận thị trường tài chính Việt Nam. Phát triển hệ thống môi giới giao dịch, phát triển môi giới điện tử để đẩy mạnh các nền tảng giao dịch trực tuyến, đặc biệt cần áp dụng công nghệ blockchain và trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa trải nghiệm của nhà đầu tư. Ứng dụng công nghệ tài chính trên sàn giao dịch. Phát triển thị trường vốn có tính thanh khoản cao và có chiều sâu, mở rộng quyền tiếp cận thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài bằng cách giảm bớt các rào cản pháp lý và tăng cường bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.

Cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và mở rộng quy mô. TP. Hồ Chí Minh cần thành lập các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp Fintech, cung cấp các chương trình cố vấn tài chính cho doanh nghiệp mới. Cần thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

Tài liệu tham khảo:
1. Dolgova, A. Y. (2017). International financial centre and global city. https://www.researchgate.net/publication/International Financial Centre and Global City.
2. Phan Hoàng Long & Phùng Tấn Hải Triều (2021). Xây dựng một trung tâm tài chính quốc tế – cơ sở lý thuyết và hàm ý thực tiễn cho Thành phố Đà Nẵng. https://ktpt.edu.vn.pdf
3. The City of London (2023). Phát triển Trung tâm tài chính và kinh doanh quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh. https://www.thecityuk.com/media.pdf.
4. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 259/NĐ-QH về ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Thông báo số 47-TB/TW ngày 15/11/2024 về xây dựng Trung tâm Tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2024). Thông báo số 47-TB/TW về việc xây dựng Trung tâm Tài chính khu vực và quốc tế tại Việt Nam.
6. Báo cáo PAPI (2023). Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam. https://papi.org.vn/.
7. Báo cáo PCI (2023). Dữ liệu về khó khăn trong tiếp cận thông tin đấu thầu.