Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế toàn diện, thực chất, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững đất nước

TS. Đỗ Hồng Quân
TS. Hồ Nam Trân
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế là yêu cầu cấp thiết nhằm phục vụ hiệu quả cho mục tiêu phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Ngày 10/8/2022, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế một cách toàn diện, thực chất trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, trong đó xác định: “Ngoại giao kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của nền ngoại giao Việt Nam, một động lực quan trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững…”. Để làm được điều này, cần xây dựng chiến lược ngoại giao kinh tế toàn diện, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, phát huy vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời cải thiện thể chế, môi trường đầu tư trong nước. Việc phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định để tận dụng hiệu quả các FTA thế hệ mới và nâng cao vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam trên trường quốc tế.

Từ khóa: Kinh tế, ngoại giao kinh tế, kinh tế đối ngoại, phát triển đất nước, đẩy mạnh.

1. Đặt vấn đề

Ngoại giao kinh tế xuất hiện song hành với sự hình thành và phát triển của các quan hệ kinh tế trong bối cảnh quốc tế. Trong chiến lược phát triển đất nước, cả chính sách đối ngoại và đối nội của Việt Nam đều tập trung hướng đến mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh ngoại giao chính trị và ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế ngày càng khẳng định vai trò then chốt, trở thành một trụ cột quan trọng trong tổng thể hoạt động đối ngoại của quốc gia.

Thông qua việc tăng cường hợp tác và củng cố quan hệ chính trị giữa các nước, hoạt động ngoại giao tạo nền tảng vững chắc cho việc mở rộng các lĩnh vực hợp tác khác, đặc biệt là kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học – công nghệ và phân công lao động quốc tế đã khiến yếu tố kinh tế trở thành lực đẩy chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, kinh tế cũng được xem là tiêu chí cốt lõi phản ánh sức mạnh tổng thể của một quốc gia.

Trong bối cạnh tranh toàn cầu gay gắt, việc đẩy mạnh ngoại giao kinh tế là cấp thiết để Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư chất lượng cao, tiếp cận công nghệ tiên tiến và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

2. Quan niệm, nội dung của ngoại giao kinh tế

Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học cũng có nhiều cách giải thích khác nhau về quan niệm ngoại giao kinh tế. Xét từ góc độ chính trị, ngoại giao kinh tế có thể được hiểu là việc quốc gia sử dụng công cụ ngoại giao để đạt được lợi ích kinh tế chiến lược, đồng thời sử dụng năng lực kinh tế để củng cố ảnh hưởng chính trị trong quan hệ quốc tế (Bayne, Nicholas & Woolcock, Stephen, 2011)1. Xét từ góc độ kinh tế, ngoại giao kinh tế là việc các chính phủ sử dụng các hoạt động đối ngoại như đàm phán, hợp tác song phương và đa phương, hiệp định kinh tế, để tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế quốc gia thông qua thương mại quốc tế, đầu tư, hợp tác tài chính và công nghệ (Bergeijk, Peter A.G. van & Moons, Selwyn, 2009)2.

Tuy Việt Nam chưa có định nghĩa cụ thể về ngoại giao kinh tế nhưng Nghị định số 08/2003/NĐ-CP ngày 10/02/2003 của Chính phủ quy định về hoạt động của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế có nêu rõ “Để nâng cao hiệu quả hoạt động phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đưa hoạt động này thành một trong các biện pháp của Chính phủ nhằm thúc đẩy thương mại, hợp tác đầu tư, hợp tác phát triển, hợp tác khoa học – công nghệ, du lịch, lao động, dịch vụ thu ngoại tệ; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân Việt Nam trong hoạt động kinh tế đối ngoại”. Mục tiêu của hoạt động này bao gồm: thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại; hỗ trợ doanh nghiệp và địa phương hội nhập kinh tế quốc tế; thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại, du lịch, khoa học – công nghệ; vận động viện trợ và hợp tác phát triển; bảo vệ lợi ích kinh tế của công dân và doạnh nghiệp ở nước ngoài; tham gia và đàm phán các hiệp định kinh tế, thương mại quốc tế.

Có thể thấy, ngoại giao kinh tế sẽ sử dụng các công cụ và kệnh ngoại giao nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế. Ngoại giao kinh tế ngày càng trở thành một trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như của nhiều quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế sâu rộng.

Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030 đã nhấn mạnh: “Ngoại giao kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao Việt Nam, gắn kết chặt chẽ với ngoại giao chính trị, văn hóa và công tác đối ngoại nhân dân nhằm huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước”.

Đặc điểm nổi bật của ngoại giao kinh tế là gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia; mang tính tổng hợp, liên ngành (vì đây là lĩnh vực liên kết giữa ngoại giao và kinh tế, đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngoại giao và kinh tế); được triển khai kết hợp cả trong quan hệ song phương và đa phương; phục vụ cấp vĩ mô, đồng thời hướng đến hỗ trợ doanh nghiệp, địa phương và người dân: mang tính chủ động, nhạy bén và linh hoạt để thích ứng với diễn biến kinh tế thế giới, xu hướng toàn cầu hóa, cạnh tranh thương mại và các biến động địa – chính trị3.

Từ đặc điểm trên, có thể thấy, nội dung của hoạt động ngoại giao kinh tế bao gồm nhiều mặt được triển khai nhằm phục vụ mục tiêu phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam, bao gồm:

Thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại. Xây dựng và mở rộng quan hệ kinh tế với các quốc gia, tổ chức quốc tế; đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế song phương và đa phương.

Thu hút đầu tư nước ngoài. Quảng bá các chính sách kinh tế và môi trường đầu tư của Việt Nam; kết nối các nhà đầu tư nước ngoài với địa phương và doanh nghiệp Việt Nam.

Xúc tiến thương mại và hỗ trợ xuất khẩu. Tổ chức hội chợ, triển lãm, diễn đàn kinh tế tại nước ngoài; hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường nước ngoài; vận động mở cửa thị trường, gỡ bỏ các rào cản thương mại.

Vận động viện trợ và hợp tác phát triển. Đàm phán, thu hút hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)và viện trợ không hoàn lại; triển khai các chương trình hợp tác về y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường.

Hỗ trợ doanh nghiệp và địa phương hội nhập quốc tế. Cung cấp thông tin thị trường, pháp luật, chính sách của nước sở tại; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.

Gắn kết với các hoạt động ngoại giao chính trị, văn hóa. Tăng cường quảng bá hình ảnh quốc gia, thương hiệu của Việt Nam ra thế giới; tận dụng lồng nghép các nội dung kinh tế trong các chuyến thăm cấp cao, hội nghị quốc tế.

Hiện nay, để khẳng định vị thế quốc gia, các nước đều ưu tiên phát triển kinh tế, đòi hỏi phải kết hợp sức mạnh nội tại với nguồn lực quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt khỏi phạm vi quốc gia, ngoại giao kinh tế trở thành xu thế tất yếu và đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Trước những biến động nhanh chóng của thế giới, nhiều nước đã đổi mới tư duy đối ngoại, lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm trong hoạt động ngoại giao. Ở Việt Nam, ngoại giao kinh tế ngày càng được chú trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà nước đã nhiều lần khẳng định yêu cầu gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại chính trị và đối ngoại kinh tế, coi ngoại giao kinh tế là nhiệm vụ thiết yếu trong thời kỳ phát triển mới.

Ngoại giao kinh tế trong thời kỳ phát triển mới ngày càng hoàn chỉnh. Sự liên kết giữa ba cột trụ ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa đã phát huy hiệu quả, trong đó, ngoại giao kinh tế Việt Nam không những thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu, tư vấn và đề xuất xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế cho Đảng và Nhà nước mà còn tích cực trực tiếp tham gia vào các nhiệm vụ kinh tế đối ngoại then chốt, như: tìm kiếm đối tác, thu hút đầu tư, mở đường cho thị trường hang hóa trong nước giao thương quốc tế, viện trợ nước ngoài, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tìm kiếm thị trường lao động, thu hút khách du lịch quốc tế…

3. Thành tựu nổi bật và những hạn chế, khó khăn trong ngoại giao kinh tế của Việt Nam

3.1. Những thành tựu nổi bật

Sau năm 1975, trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn khôi phục sau chiến tranh, Việt Nam sớm nhận thấy tầm quan trọng của việc gắn kết hoạt động đối ngoại với phát triển kinh tế. Bộ Ngoại giao đã chủ động nghiên cứu xu hướng kinh tế toàn cầu, tham mưu xây dựng chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng, khắc phục hậu quả chiến tranh và tranh thủ nguồn lực quốc tế cho công cuộc tái thiết đất nước. Đồng thời, Việt Nam tích cực mở rộng hợp tác quốc tế, tìm kiếm viện trợ và triển khai các biện pháp phá thế cô lập về kinh tế.

Từ thập niên 1990, đặc biệt là sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, ngoại giao kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh, tập trung vào thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tìm kiếm đối tác thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu và thúc đẩy hợp tác phát triển. Việt Nam cũng tích cực tham gia vào nhiều cơ chế hợp tác kinh tế đa phương, góp phần nâng cao vị thế và hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế.

Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra những chủ trương, đường lối quan trọng đối với công tác đối ngoại nói chung và công tác ngoại giao kinh tế nói riêng. Văn kiện Đại hội cũng lần đầu tiên đề ra định hướng “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”4. Quán triệt và thực hiện đường lối đối ngoại mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra, công tác ngoại giao kinh tế đã được triển khai quyết liệt, toàn diện, chuyển biến sâu sắc về chất và lượng, đạt nhiều kết quả quan trọng, đáng tự hào, tiếp tục đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030 đã được ban hành; Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 20/2/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn 2022 – 2026 thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030 có sự chuyển biến mạnh mẽ từ tư duy, nhận thức đến hành động trong các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, thực sự trở thành nhiệm vụ trung tâm của toàn ngành Ngoại giao và đạt nhiều kết quả tích cực.

 Tính đến năm 2023, Việt Nam có 94 cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài5, góp phần vào việc thu thập thông tin kinh tế, dự báo các xu hướng phát triển mới trong khu vực và trên thế giới, đồng thời là một cầu nối giúp giới thiệu đối tác, tìm kiếm các thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và lao động của Việt Nam. Ngoại giao kinh tế đã chủ động, tích cực thúc đẩy quá trình hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam; tham mưu chiến lược về sự tham gia và đóng góp tích cực, trách nhiệm của Việt Nam tại các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương; hỗ trợ vận động, đàm phán, ký kết các FTA, EVFTA với nhiều đối tác then chốt, góp phần mở rộng không gian phát triển, đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong các liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu và ngày càng củng cố, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.

Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ngành tổ chức hiệu quả các hoạt động đối ngoại, đặc biệt là đối ngoại cấp cao, góp phần làm sâu sắc quan hệ kinh tế với các đối tác, tranh thủ tối đa các nguồn lực và duy trì cục diện đối ngoại thuận lợi cho phát triển đất nước. Việt Nam thiết lập các khuôn khổ hợp tác mới mang tính đột phá, như: ký kết Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với nhóm các nước G7 và châu Âu với nguồn đầu tư ban đầu trị giá 15,5 tỷ USD6; đối tác kinh tế số, kinh tế xanh với Singapore7; ODA thế hệ mới với Nhật Bản8; đối tác chiến lược về tài chính xanh với Luxembourg9; MOU hợp tác với WEF giai đoạn 2023 – 202610. Thu hút thành công các dự án đầu tư xanh và công nghệ cao, như: dự án nhà máy trung hòa các-bon đầu tiên trên thế giới trị giá 1,3 tỷ USD của Tập đoàn Lego11; Trung tâm R&D trị giá 220 triệu USD của Tập đoàn Samsung12… Triển khai và hỗ trợ thiết lập các khuôn khổ hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế, theo thống kê của Bộ Công Thương, đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ký kết, thực thi 16 FTA và 3 FTA đang đàm phán. FTA mới nhất được ký kết trong năm 2023 là FTA với Israel (VIFTA) đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và có quan hệ thương mại trong khu vực mậu dịch tự do với hơn 60 nền kinh tế. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất ký kết FTA với tất cả các đối tác kinh tế lớn trên toàn cầu, như: Hoa Kỳ, Nhật Bản,Trung Quốc, EU, Anh, Nga13.

Công tác ngoại giao kinh tế tích cực đồng hành, hỗ trợ các ngành, lĩnh vực, địa phương và doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hợp tác kinh tế. Chính phủ giao ban ngoại giao kinh tế với các ngành như: dệt may, da giày, gỗ và lâm sản, thủy sản khi các quốc gia trên thế giới lần lượt áp tiêu chuẩn xanh và mức thuế mới lên các mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam… để giúp các hiệp hội, ngành hàng nắm bắt thêm thông tin của các thị trường và tham mưu các định hướng, giải pháp tháo gỡ khó khăn trước mắt và mở rộng thị trường xuất khẩu trong dài hạn. Bộ Ngoại giao đã tổ chức hơn 120 đoàn làm việc tới các địa phương, gần 100 hoạt động kết nối các đối tác quốc tế, doanh nghiệp kiều bào với địa phương, hỗ trợ ký kết hơn 250 văn bản hợp tác quốc tế. Các trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài làm việc với 9 bộ, ngành, trên 100 hiệp hội, doanh nghiệp lớn của Việt Nam để nắm bắt nhu cầu hỗ trợ thúc đẩy hợp tác và tháo gỡ khó khăn14. Bộ Ngoại giao đẩy mạnh các hoạt động cập nhật, thông tin cho các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp Việt Nam về các xu thế, quy định mới trong thương mại, đầu tư quốc tế tác động đến xuất khẩu và thu hút đầu tư; tăng cường thông tin thị trường, thẩm tra, xác minh đối tác; tích cực hỗ trợ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp Việt Nam trong các tranh chấp thương mại quốc tế.

Hoạt động ngoại giao kinh tế cũng góp phần thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI): nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như NVIDIA, Amkor, LG, Hyosung, Foxconn đã đầu tư và mở rộng sản xuất vào Việt Nam, góp phần phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và công nghệ cao. Tính lũy kế đến hết năm 2024, cả nước có hơn 42 nghìn dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 502,8 tỷ USD15. Ngoại giao kinh tế đã hỗ trợ doanh nghiệp và địa phương hội nhập quốc tế, thúc đẩy thương hiệu quốc gia và hình ảnh Việt Nam. Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã triển khai hơn 700 hoạt động ngoại giao kinh tế, xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch, hỗ trợ địa phương hơn 400 hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư trong và ngoài nước16

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong những năm qua, hoạt động ngoại giao kinh tế cũng đang gặp phải không ít khó khăn và bộc lộ những hạn chế trước tác động của tình hình thế giới và khu vực đang có những biến động nhanh chóng và khó lường, cụ thể:

Một là, môi trường pháp lý và thể chế trong nước chưa thực sự thuận lợi: một số chính sách chưa nhất quán hoặc chậm điều chỉnh để thích ứng với yêu cầu hội nhập (chính sách ưu đãi đầu tư thiếu chọn lọc, dàn trải), thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian, gây khó khăn cho thu hút đầu tư.

Hai là, hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư còn mang tính hình thức, thiếu tính chiến lược và chiều sâu; nguồn lực tài chính và nhân lực cho hoạt động xúc tiến còn hạn chế, nhất là ở các địa phương.

Ba là, thiếu thông tin, dự báo và phân tích thị trường: hệ thống thu thập, xử lý và chia sẻ thông tin thị trường quốc tế còn thiếu và yếu; doanh nghiệp Việt Nam thiếu kênh thông tin đáng tin cậy từ các cơ quan đại diện ngoại giao, do vậy khó khăn trong việc ra quyết định đầu tư hay mở rộng thị trường.

Bốn là, năng lực đội ngũ cán bộ ngoại giao kinh tế còn hạn chế: thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên sâu về kinh tế, thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài; kỹ năng hội nhập, đàm phán, tư vấn đầu tư chưa theo kịp yêu cầu hội nhập sâu rộng.

Năm là, nhiều doanh nghiệp thiếu sự chủ động: chưa chủ động tìm hiểu, thận dụng các Hiệp định thương mại tự do (FTA); vẫn còn tâm lý ỉ lại và phụ thuộc vào Nhà nước trong việc mở đường, tiếp cận thị trường.

Nguyên nhân của những hạn chế và khó khăn trong hoạt động ngoại giao kinh tế của Việt Nam có thể kể đến đó là: bối cảnh kinh tế – chính trị thế giới phức tạp, cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt cả về chi phí, chất lượng lao động và môi trường pháp lý; yêu cầu cao từ các FTA thế hệ mới, như: CPTPP, EVFTA, RCEP; Thiếu chiến lược tổng thể và dài hạn về ngoại giao kinh tế, dẫn đến nhiều hoạt động ngoại giao kinh tế còn mang tính ứng phó, chưa chủ động; năng lực đội ngũ cán bộ ngoại giao kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu cả về kiến thức chuyên sâu và kỹ năng phân tích thị trường, đàm phán và xúc tiến đầu tư, thương mại quốc tế; thiếu thông tin, thụ động và cơ chế phối hợp liên ngành còn yếu.

4. Phương hướng giải pháp đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới

Trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường với nhiều thay đổi sâu sắc như căng thẳng thương mại, sự tái cấu trúc chuỗi giá trị toàn cầu và dòng vốn đầu tư quốc tế, cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Các nước lớn đẩy mạnh hiện diện và mở rộng tầm ảnh hưởng, khiến môi trường quốc tế trở nên vừa hợp tác vừa đối đầu. Trước thực tiễn này, ngoại giao kinh tế của Việt Nam đối mặt với cả thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi cần có định hướng rõ ràng và các giải pháp linh hoạt, kịp thời. Việc tận dụng tốt các nguồn lực bên ngoài thông qua ngoại giao kinh tế sẽ đóng vai trò then chốt giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng 8% vào năm 2025 và hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.

4.1. Về phương hướng đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển ở Việt Nam trong thời gian tới

Thứ nhất, cần thống nhất nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của ngoại giao kinh tế, xác định ngoại giao kinh tế là một trụ cột ưu tiên hàng đầu trong ngoại giao quốc gia. Xây dựng chiến lược ngoại giao kinh tế dài hạn, bài bản, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng xanh, kinh tế số, chuyển đổi năng lượng.

Thứ hai, ngoại giao kinh tế Việt Nam tiếp tục bám sát tình hình, xu thế phát triển của kinh tế thế giới để xác định những nhiệm vụ phát triển kinh tế phù hợp với bối cảnh khu vực và thế giới và các lợi ích chiến lược của đất nước theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng nêu trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia thực chất vào các diễn đàn kinh tế khu vực, các diễn đàn quản trị kinh tế toàn cầu, Chỉ thị số 15-CT/TW của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế trong giai đoạn mới của đất nước.

Thứ ba, tiếp tục mở rộng, làm sâu sắc hơn quan hệ và tạo thế đan xen lợi ích kinh tế với các đối tác17. Tranh thủ tối đa các quan hệ chính trị đối ngoại để thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế, qua đó củng cố vững chắc quan hệ với các đối tác, nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín đất nước.

Thứ tư, ngoại giao kinh tế cần chủ động thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác mới như kinh tế xanh và kinh tế số để gia tăng sức hấp dẫn đối với các đối tác quốc tế, qua đó tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững. Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ hiện đại và đổi mới phương thức triển khai hoạt động đối ngoại là yêu cầu cấp thiết, giúp Việt Nam bắt nhịp với những chuyển động của thời đại, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu

Thứ năm, phát triển ngoại giao kinh tế theo hướng lấy doanh nghiệp và người dân làm trọng tâm, coi đây là động lực chính cho tăng trưởng. Thúc đẩy vai trò chủ động và tích cực của các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong việc tham gia vào các hoạt động đối ngoại phục vụ kinh tế. Đồng thời, chú trọng hỗ trợ các ngành và địa phương tận dụng hiệu quả thị trường quốc tế, tiếp cận các nguồn lực tài chính đi kèm chuyển giao công nghệ hiện đại, cũng như nâng cao khả năng tham gia vào các chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Thứ sáu, tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến đầu tư, thương mại, nâng cao hình ảnh, vị thế quốc gia thông qua nhiều hình thức khác nhau.

b. Giải pháp đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển ở Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới

Một là, hoàn thiện chiến lược ngoại giao kinh tế và tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành và địa phương. Cụ thể, xây dựng chiến lược ngoại giao kinh tế tổng thể, gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và an ninh, quốc phòng; thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành, các địa phương, hiệp hội ngành, nghề và doanh nghiệp; phân công rõ vai trò, trách nhiệm giữa các cơ quan, tránh hoạt động chồng chéo, kém hiệu quả. Bảo đảm thống nhất trong triển khai các hoạt hộng ngoại giao kinh tế; tăng cường kết nối giữa các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài với các địa phương, doanh nghiệp trong nước.

Hai là, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược cho đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực ngoại giao kinh tế. Cụ thể là, đào tạo cán bộ ngoại giao kinh tế đa ngành, có kiến thức chuyên môn sâu về ngoại giao, kinh tế, luật pháp quốc tế, thương mại đầu tư, có kỹ năng phân tích, thông tin và đàm phán; khuyến khích cán bộ ngoại giao kinh tế học tập và trau dồi kiến thức thuộc các lĩnh vực mới như kinh tế số, kinh tế xanh, chuyển đổi năng lượng; thiết lập và bồi dưỡng kỹ năng quản lý hệ thống thu thập và phân tích thông tin quốc tế hiệu quả; tăng cường tính nhạy bén, kịp thời trong nghiên cứu, thông tin và tham mưu chiến lược; nâng cao chất lượng dự báo rủi ro, tập trung nhận diện xu hướng mới để kịp thời điều chỉnh chính sách và đáp ứng những ưu tiên mới của đối tác.

Ba là, đổi mới hoạt động ngoại giao kinh tế, đưa kinh tế trở thành trọng tâm trong hoạt động đối ngoại, làm mới và thúc đẩy các động lực tăng trưởng. Cụ thể là, tăng cường xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch có chọn lọc, gắn với nhu cầu và thế mạnh của từng địa phương và doanh nghiệp; ứng dụng chuyển đổi số trong công tác xúc tiến đầu tư và thương mại, tổ chức các hội nghị trực tuyến, triển lãm số, kết nối đầu tư online; phát triển mạng lưới tham tán thương mại, đầu tư tại các quốc gia trọng điểm để nắm rõ thông tin, hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp; tổ chức hiệu quả các chương trình đối ngoại cấp cao, lồng ghép nội dung kinh tế vào chương trình nghị sự, chuyển hóa các thỏa thuận, cam kết thành dự án cụ thể, khả thi với từng đối tác; củng cố các động lực truyền thống như thương mại, đầu tư, tiêu dùng; phát huy các động lực mới, như: kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức; tập trung vào một số lĩnh vực đột phá, như: công nghệ cao, bán dẫn, hydrogen, trí tuệ nhân tạo (AI).

Bốn là, tận dụng tối đa các FTA, đa dạng hóa thị trường và đối tác, khai thác hiệu quả mạng lưới FTA đã ký với các đối tác. Thúc đẩy đàm phán, nâng cấp các FTA hiện hành, đàm phán FTA với các đối tác mới. Rà soát, hướng dẫn thực thi, theo dõi và thúc đẩy triển khai các cam kết với các đối tác quốc tế trong CPTPP, EVFTA, RCEP nhằm tận dụng cơ hội và giảm rủi ro. Củng cố quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với các thị trường lớn, chủ chốt. Mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chú trọng các địa bàn tiềm năng như Trung Đông – châu Phi, UAE, thị trường Halal. Thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực mới như công nghệ cao, đổi mới sáng tạo.

Năm là, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các thị trường theo các FTA, tận dụng ưu đãi thuế quan. Cụ thể, cung cấp thông tin thị trường, đối tác, quy định pháp lý, rào cản kỹ thuật cho doanh nghiệp Việt Nam; khuyến khích xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu ngành hàng để tăng giá trị xuất khẩu.

Sáu là, tăng cường vai trò của địa phương và huy động nguồn lực từ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: khuyến khích ngoại giao kinh tế địa phương, kết nối trực tiếp giữa các tỉnh, thành phố với các vùng, địa phương ở nước ngoài; phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài trong xúc tiến đầu tư, đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để kiều bào đóng góp vào quá trình phát triển đất nước; tổ chức các diễn đàn trí thức, chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài và hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài để chia sẻ, đóng góp cho phát triển quốc gia.

5. Kết luận

Ngoại giao kinh tế đã và đang trở thành một trụ cột quan trọng trong nền ngoại giao của Việt Nam, đóng vai trò cầu nối giữa hoạt động đối ngoại và phát triển kinh tế – xã hội. Trong những năm qua, hoạt động ngoại giao kinh tế đã thực hiện tốt vai trò hỗ trợ, đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp triển khai các hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động ngoại giao kinh tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế do ảnh hưởng của tình hình thế giới và cơ chế, chính sách trong nước. Thời gian tới, Việt Nam cần xác định rõ phương hướng và triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp ngoại giao kinh tế để phát huy các kết quả đạt được và tranh thủ mọi cơ hội, nhằm đưa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng trong kỷ nguyên phát triển mới.

Chú thích:
1. Bayne, Nicholas & Woolcock, Stephen (2004). The New Economic Diplomacy: Decision-Making and Negotiation in International Economic Relations. Ashgate Pub Ltd Publisher.
2. Bergeijk, Peter A.G. van & Moons, Selwyn (2009). Economic Diplomacy and Economic Security. New frontiers for Economic Diplomacy, pp. 37-54. Carla Guapo Costa, ed., Instituto Superior de Ciéncias Sociais e Politicas.
3. Nguyễn Thị Thanh Vân (2024). Ngoại giao kinh tế và những vấn đề đặt ra trong hội nhập quốc tế của Việt Nam. (Sách chuyên khảo). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 162.
5. 94 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài phải là những cây “ăng-ten” nhạy bén, tin cậy. https://congly.vn/94-co-quan-dai-dien-viet-nam-o-nuoc-ngoai-phai-la-nhung-cay-ang-ten-nhay-ben-tin-cay-229771.html
6. Các đối tác cam kết hỗ trợ Việt Nam 15,5 tỷ USD để chuyển đổi năng lượng. https://baochinhphu.vn/cac-doi-tac-cam-ket-ho-tro-viet-nam-155-ty-usd-de-chuyen-doi-nang-luong-102231201231325871.htm
7. Việt Nam và Singapore thiết lập quan hệ đối tác kinh tế số – kinh tế xanh. https://baochinhphu.vn/viet-nam-va-singapore-thiet-lap-quan-he-doi-tac-kinh-te-so-kinh-te-xanh-102230209123914741.htm
8. Thủ tướng đề nghị Nhật Bản hỗ trợ ODA thế hệ mới cho một số dự án hạ tầng lớn. https://baochinhphu.vn/thu-tuong-de-nghi-nhat-ban-ho-tro-oda-the-he-moi-cho-mot-so-du-an-ha-tang-lon-102250108171034393.htm
9. Tăng cường hợp tác tài chính xanh giữa Việt Nam và Luxembourg. https://nhandan.vn/tang-cuong-hop-tac-tai-chinh-xanh-giua-viet-nam-va-luxembourg-post865324.html
10. Hợp tác giữa Việt Nam và Diễn đàn kinh tế thế giới phát triển trên nhiều lĩnh vực. https://ttdn.vn/nghien-cuu-trao-doi/su-kien-binh-luan/hop-tac-giua-viet-nam-va-dien-dan-kinh-te-the-gioi-phat-trien-tren-nhieu-linh-vuc-106068
11. Lego chính thức khánh thành dự án 13 tỷ USD tại Bình Dương. https://baodautu.vn/lego-chinh-thuc-khanh-thanh-du-an-13-ty-usd-tai-binh-duong-d265099.html
12. Samsung đầu tư 220 triệu USD xay dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển lớn nhất Đông Nam Á tại Hà Nội. https://doanhnghiepvn.vn/chuyen-doi-so/samsung-dau-tu-220-trieu-usd-xay-dung-trung-tam-nghien-cuu-va-phat-trien-lon-nhat-dong-nam-a-tai-ha-noi/20200302040209570
13. Tận dụng tối đa cơ hội từ các FTA và mục tiêu tăng trưởng càng cao càng tốt. https://baochinhphu.vn/tan-dung-toi-da-cac-co-hoi-tu-cac-fta-va-muc-tieu-tang-truong-cang-cao-cang-tot-102240530160358728.htm
14. Ngoại giao kinh tế đóng góp tích cực cho phát triển đất nước, góp phần thực hiện hiệu quả đường lối của Đại hội Đảng lần thứ XIII. https://baochinhphu.vn/ngoai-giao-kinh-te-dong-gop-tich-cuc-cho-phat-trien-dat-nuoc-gop-phan-thuc-hien-hieu-qua-duong-loi-cua-dai-hoi-dang-lan-thu-xiii-102230828191835113.htm
15. Chiến lược thu hút FDI, nâng vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. https://vneconomy.vn/chien-luoc-thu-hut-fdi-nang-vi-the-viet-nam-trong-chuoi-gia-tri-toan-cau.htm
16. Ngoại giao kinh tế tạo đà bứt phá cho tăng trưởng năm 2025. https://nhandan.vn/ngoai-giao-kinh-te-tao-da-but-pha-cho-tang-truong-nam-2025-post851694.html
17. Chính phủ (2023). Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 20/02/2023 về ban hành chương trình hành động của chính phủ giai đoạn 2022 – 2026 thực hiện chỉ thị số 15-ct/tw ngày 10 tháng 8 năm 2022 của ban bí thư về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030.