Vai trò của khoa học trong phát triển lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay

Đại tá, TS. Nguyễn Văn Thủy
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, khoa học giữ vai trò định hướng chiến lược và là động lực trực tiếp cách mạng hóa nguồn nhân lực qua đổi mới sáng tạo. Khoa học tham gia tối ưu hóa quy trình sản xuất và phân bổ nguồn lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho lực lượng sản xuất mới. Sự hợp lý hóa này không chỉ là đòn bẩy nâng cao năng suất lao động nhờ cơ giới hóa, số hóa và trí tuệ nhân tạo mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững. Khoa học trở thành trụ cột xây dựng xã hội phồn vinh, bảo đảm an ninh và nâng cao vị thế quốc gia trong kỷ nguyên mới.

Từ khóa: Vai trò, khoa học, lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất mới.

1. Đặt vấn đề

Khoa học và công nghệ là những thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học được vật hóa thành công cụ sản xuất (công cụ lao động), như máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…, đó là yếu tố động nhất và có vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, tri thức khoa học có mặt trong khoa học quản lý, tổ chức và phân phối. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội nói chung, của phương thức sản xuất nói riêng, vai trò của khoa học – công nghệ cũng ngày càng được nâng cao, được thể hiện rõ ràng dưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ vào quá trình không ngừng biến đổi và hoàn thiện.

Từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, ngày nay, khoa học – công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển với tốc độ nhanh chóng, tạo ra bước đột phá mạnh mẽ ở việc hiện thực hóa tư tưởng của C.Mác về: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp1 trên thực tiễn một cách sinh động.

Sự cạnh tranh trong phát triển giữa các quốc gia, dân tộc hiện nay đang tiến đến trình độ phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm giải quyết các vấn đề mà con người hiện tại chưa có phương án giải quyết đang đặt ra nhiều thách thức với các nước đang phát triển như một tình huống khẩn cấp quan trọng cần được nghiên cứu và làm rõ vai trò khoa học trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với việc tiếp cận thành tựu cách mạng sản xuất mới và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ để tạo ra năng suất lao động cao. Biểu hiện tập trung nhất là gắn phát triển khoa học với đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng, trọng dụng, sử dụng nhân tài,… trong phát triển đất nước. Tuy nhiên, quá trình ấy vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Vấn đề khoa học còn nhiều phương diện chưa thật sự trở thành lực lượng sản xuất, chưa tương xứng với vị trí, vai trò cũng như tiềm năng vốn có của nó. Nguồn nhân lực có chất lượng cao chưa thật tương xứng cả số lượng và chất lượng. Trọng dụng nhân tài vẫn còn nhiều bất cập ở cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ,… Những điều đó phản ánh vai trò của khoa học trong phát triển lực lượng sản xuất chưa ngang tầm với mục đích, yêu cầu từ thực tiễn thế giới và trong nước đặt ra.

Sự tác động sâu rộng của cách mạng công nghiệp 4.0 cho thấy, khoa học phải đạt đến một trình độ phát triển cao đến mức đủ sức giải quyết những vấn đề cấp thiết do thực tiễn xã hội đặt ra. Tận dụng, đón đầu mọi thành tựu mới của khoa học – công nghệ để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Yêu cầu mới đó để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp đó chính là sự thấm nhuần sâu sắc,dù dưới hình thức tự giác hay tự phátnguyên lý triết học mácxít về sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, mà nếu ứng dụng vào quá trình sản xuất vật chất thì đó là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động khoa học. Để định hướng phát triển kinh tế tri thức với những đặc trưng cơ bản, quan trọng và quyết định nhất hàm lượng khoa học, trí tuệ, chất xám kết tinh rất nhiều ở sản phẩm lao động trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều nội dung mới trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.

2. Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của khoa học trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam

Khoa học là một hiện tượng, một lĩnh vực của xã hội được nhiều khoa học tiếp cận và luận giải. Mỗi khoa học tiếp cận, luận giải bản chất và đánh giá vai trò khoa học có sự khác nhau. Ở góc độ triết học thì khoa học được tiếp cận trên hai phương diện: một là, với tính cách của một hình thái ý thức xã hội trong phản ánh tồn tại xã hội; hai là, với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng trong quan hệ với cơ sở hạ tầng hay là một hiện tượng xã hội. Mặc dù có sự khác nhau trong tiếp cận, luận giải bản chất, đánh giá vai trò nhưng thống nhất ở sự phản ánh đúng hiện thực khách quan và tri thức có tính hệ thống hóa.

Lực lượng sản xuất mới là khái niệm chỉ sự phát triển vượt bậc về chất lượng và trình độ của các yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất trong thời kỳ cách mạng công nghiệp hiện đại. Yếu tố cốt lõi của lực lượng này bao gồm: con người được đào tạo bài bản, công nghệ tiên tiến (đặc biệt là công nghệ số, AI, tự động hóa), và cơ sở hạ tầng kỹ thuật – số hóa.

Trong bối cảnh hiện nay, lực lượng sản xuất không còn đơn thuần là lao động phổ thông kết hợp với máy móc cơ khí truyền thống. Thay vào đó, nó được nâng cấp thành hệ thống sản xuất thông minh, nơi mà dữ liệu lớn (Big Data), mạng lưới vạn vật kết nối (IoT) và hệ thống học máy cùng phân tích dữ liệu trở thành trung tâm điều phối. Người lao động cần có tư duy sáng tạo, năng lực số và khả năng thích ứng nhanh với thay đổi công nghệ. Khoa học đóng vai trò then chốt trong việc kiến tạo lực lượng sản xuất mới thông qua việc phát triển các công nghệ lõi, cải tiến quy trình sản xuất, thiết kế hệ thống quản trị hiệu quả và tích hợp các mô hình sản xuất bền vững. Bên cạnh đó, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao – những người có thể vận hành, cải tiến và sáng tạo công nghệ – chính là nền tảng quan trọng nhất.

Ở Việt Nam, việc hình thành lực lượng sản xuất mới gắn chặt với chiến lược chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số và nâng cao năng suất lao động dựa trên khoa học – công nghệ. Đây không chỉ là yêu cầu kinh tế mà còn là vấn đề chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo vệ chủ quyền công nghệ và bảo đảm phát triển bền vững trong dài hạn.

Lực lượng sản xuất mới – với hạt nhân là khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng để giải phóng tiềm năng. Ngược lại, quan hệ sản xuất tiến bộ (như chính sách khuyến khích khởi nghiệp, sở hữu trí tuệ) tạo môi trường cho lực lượng sản xuất phát triển. Khoa học làm cầu nối xâm nhập vào quan hệ sản xuất thông qua tổ chức lao động linh hoạt (remote work, gig economy), phá vỡ mô hình quản lý tập trung truyền thống. Phân phối sản phẩm dựa trên nền tảng số (e-commerce, blockchain), thay đổi quan hệ giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Vai trò của khoa học ngày càng tăng đối với phát triển lực lượng sản xuất mới trong kỷ nguyên mới. Khoa học trở thành “xương sống” của lực lượng sản xuất mới khi Việt Nam đầu tư vào nghiên cứu công nghệ cao (AI, IoT, blockchain), giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, từ chip bán dẫn đến phần mềm quản trị doanh nghiệp. Khoa học tái định nghĩa nguồn nhân lực thông qua đào tạo đa ngành (STEM), tích hợp kỹ năng số vào chương trình phổ thông, tạo ra thế hệ lao động “số hóa bẩm sinh” đáp ứng cách mạng công nghiệp 4.0. Khoa học thúc đẩy kinh tế tuần hoàn thông qua ứng dụng khoa học vật liệu (tái chế rác thải nhựa thành nhiên liệu) và công nghệ sinh học (xử lý phế phẩm nông nghiệp) biến chất thải thành tài nguyên, tối ưu hóa chuỗi sản xuất.

Khoa học tạo đà cho startup công nghệ phát triển. Khoa học tối ưu hóa năng lượng tái tạo. Khoa học dữ liệu (Big Data) hỗ trợ hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, như dự báo lạm phát chính xác đến 95% dựa trên mô hình machine learning. Khoa học đặt nền móng cho nền kinh tế lượng tử và sinh học tổng hợp, biến Việt Nam từ “bắt kịp” thành “dẫn dắt” xu hướng toàn cầu. Trong kỷ nguyên số, khoa học không chỉ là công cụ mà đã trở thành hệ điều hành của nền kinh tế, định hình lực lượng sản xuất mới trên trục kết nối giữa đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và chủ quyền công nghệ2.

3. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của khoa học trong phát triển lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay

Một là, đổi mới, hoàn thiện quan điểm chỉ đạo, chính sách đầu tư, cơ chế thu hút nhân tài vào phát triển lực lượng sản xuất.

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và sự đầu tư, quản lý của Nhà nước đối với phát triển khoa học – công nghệ. Giữ vững nguyên tắc sự lãnh đạo của Đảng về giáo dục – đào tạo và phát triển khoa học, bảo đảm cho định hướng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với phát triển khoa học, phục vụ cho thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước về khoa học – công nghệ. Quản lý nhà nước về khoa học – công nghệ là nhân tố quan trọng nhằm hiện thực hóa vai trò của lĩnh vực này trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước về khoa học – công nghệ được xác định là giải pháp mang tính đột phá nhằm hiện thực hóa vai trò về khoa học – công nghệ trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Tiếp tục hoàn thiện cụ thể hóa tư tưởng về kết hợp giữa tính tuần tự với đi tắt đón đầu ở mặt khoa học – công nghệ. Đổi mới hoàn thiện quan điểm chỉ đạo để đẩy nhanh tốc độ phát triển khoa học – công nghệ là yêu cầu bức thiết đối với mọi quốc gia, dân tộc trong điều kiện khoa học – công nghệ phát triển với tốc độ ngày càng nhanh, quy mô ngày càng lớn với nhiều thành tựu đột phá như hiện nay. Với các nước đang phát triển với tiềm lực khoa học còn nhiều hạn chế như Việt Nam, việc đổi mới hoàn thiện quan điểm chỉ đạo, chính sách đầu tư, trong đó việc tiếp tục hoàn thiện cụ thể hóa tư tưởng về kết hợp giữa tình tuần tự với đi tắt đón đầu ở mặt khoa học – công nghệ trở thành mệnh lệnh của cuộc sống.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư cơ sở vật chất tiên tiến, hiện đại trong hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ. Xây dựng cơ sở vật chất tiến tiến, hiện đại trong các học viện, trường đại học, cao đẳng và cơ quan nghiên cứu khoa học, như: bảo đảm về phòng học, phòng làm việc, phòng thí nghiệm, trang thiết bị dạy và học, thư viện,… tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất người học, nhà khoa học, tạo ra nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao, chủ thể của quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Tiếp tục hoàn thiện chủ trương và cụ thể hóa chính sách thu hút nhân tài vào phục vụ đất nước. Xây dựng đồng bộ chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài. Ban hành chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học – công nghệ, trong đó quy định rõ cơ chế tự chủ tài chính đặc thù, chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với cán bộ khoa học – công nghệ được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học – công nghệ cấp quốc gia. Bổ sung các danh hiệu vinh dự Nhà nước đối với cán bộ khoa học – công nghệ.

Xây dựng chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học – công nghệ, nhất là cán bộ trẻ có trình độ cao trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Xây dựng cơ chế giao nhiệm vụ khoa học – công nghệ tiềm năng cho cán bộ khoa học trẻ, các nhóm sinh viên giỏi trong các trường đại học trọng điểm và các viện nghiên cứu trọng điểm. Ban hành chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học – công nghệ, trong đó quy định rõ cơ chế tự chủ tài chính đặc thù, chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với cán bộ khoa học – công nghệ được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học – công nghệ cấp quốc gia.

Thực hiện một bước căn bản trong phắc phục bệnh thành tích trong nghiên cứu khoa học. Để khắc phục bệnh thành tích trong nghiên cứu khoa học cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó bản thân các nhà khoa học, các tổ chức khoa học – công nghệ giữ vai trò nòng cốt.

Đẩy mạnh hoạt động truyền thông và tuyên truyền sâu rộng trong xã hội, đặc biệt là trong các doanh nghiệp về chủ trương, chính sách, pháp luật về khoa học – công nghệ, về vai trò động lực then chốt của khoa học – công nghệ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nhằm nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, sự đồng thuận và ủng hộ mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động khoa học – công nghệ; tạo không khí thi đua lao động sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ trong hoạt động sản xuất – kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nâng cao tinh thần trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học – công nghệ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài.

Phát huy nội lực trong giáo dục – đào tạo của hệ thống cơ sở giáo dục quốc dân để thích ứng với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Giáo dục – đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động đến việc nâng cao trí tuệ, nâng cao sự hiểu biết và vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất của con người. Phát huy nội lực trong giáo dục – đào tạo thực chất là trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nhằm phát huy tính chủ động, tích cực cao của các chủ thể trong xã hội hóa giáo dục – đào tạo của hệ thống các cơ sở giáo dục quốc dân. Khi được trao quyền tự chủ, các cơ sở giáo dục – đào tạo sẽ có điều kiện để phát huy nội lực, khai thác tối đa mọi tiềm năng, nguồn lực xã hội, chủ động hơn trong hoạt động theo cơ chế tự chủ.

Tiếp thu có chất lượng, hiệu quả thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến một cách phù hợp với đặc điểm tình hình mới trong giáo dục, đào tạo. Để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, phải thực hiện đồng thời phát triển giáo dục – đào tạo với phát triển khoa học – công nghệ. Bởi vì, trình độ của lực lượng sản xuất được đánh giá bởi trình độ nguồn nhân lực, trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất. Ở Việt Nam, trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, trong điều kiện toàn cầu hoá luôn có xu hướng áp dụng những công nghệ có hàm lượng chất xám cao để tăng năng suất lao động. Do đó, giáo dục – đào tạo phải góp phần trực tiếp vào không chỉ làm tăng hàm lượng chất xám và nguồn vốn tri thức trong quá trình sản xuất, làm tăng chất lượng nguồn nhân lực mà còn tạo cơ sở để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của sản xuất – kinh doanh.

Hướng các hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng bám sát thực tiễn sản xuất kịp thời phát hiện vấn đề bất cập, cải tiến công cụ lao động đưa năng suất lao động lên cao. Phát triển nguồn nhân lực nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam vừa là mục đích, vừa là một trong những động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế tri thức. Với tư cách là động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức, giáo dục – đào tạo phải nâng cao chất lượng toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức; có kỹ năng nghề nghiệp cao, khả năng thích ứng nhanh, chủ động trong môi trường sống, trở thành nền tảng và lợi thế cho sự phát triển bền vững đất nước.

Triển khai nhiều tầng trong giáo dục – đào tạo, bồi dưỡng, tạo phong trào rộng lớn toàn xã hội gắn với sáng kiến và cải tiến công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được đánh giá bởi trình độ nguồn nhân lực, trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất. Nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ tạo ra năng suất lao động cao mà còn tạo nên cơ hội, khả năng tìm kiếm việc làm, khả năng chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sử dụng trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sản xuất, làm cho lợi thế về mặt số lượng và chất lượng trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm tăng sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Để có công nghệ mới và hiện đại thì con đường ngắn nhất là hợp tác, liên doanh với nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn có xu hướng áp dụng những công nghệ có hàm lượng chất xám cao để tăng năng suất lao động. Do vậy, để có nguồn nhân lực được đào tạo tốt, có năng lực phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa, đòi hỏi phải chủ động, tích cực nắm bắt cơ hội và nhanh chóng và triển khai ứng dụng những kỹ thuật mới nhất, tiên tiến nhất và hiện đại nhất. Nguồn nhân lực đó chẳng những tận dụng được tiềm năng của đất nước, tranh thủ được cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra mà còn tạo ra lợi thế để đi thẳng vào kinh tế tri thức, thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tăng thêm nguồn lực để thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.

Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong giáo dục – đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Mở rộng liên kết đào tạo hợp tác quốc tế trong phối hợp hoạt động giáo dục – đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp cận chuẩn mực giáo dục đại học tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam, tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới. Đưa hợp tác quốc tế góp phần tích cực thực hiện mục tiêu đào tạo, nghiên cứu khoa học chất lượng cao, ngang tầm khu vực, từng bước đạt trình độ quốc tế.

Hợp tác quốc tế bình đẳng trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và sản xuất có hiệu quả nhằm nâng cao nội lực và đem lại nguồn thu cho các cơ sở giáo dục – đào tạo. Đa phương hoá, đa dạng hóa loại hình hợp tác, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế. Tăng cường ký kết thỏa thuận, đẩy mạnh hợp tác với các cường quốc trên thế giới và vùng lãnh thổ với các nước thuộc khu vực ASEAN về nghiên cứu khoa học, giáo dục đại học và dạy nghề đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới.

Tăng cường, mở rộng và chủ động chính thức hóa thiết lập mối quan hệ với các trường đại học có uy tín trên thế giới để mở rộng hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi giảng viên và sinh viên, có thể cùng liên kết với các trường đại học và các cơ sở giáo dục liên quan trong nước để triển khai mô hình hợp tác đào tạo và bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao. Tăng số lượng các chương trình giảng dạy bằng tiếng nước ngoài, chuyển giao công nghệ, liên kết đào tạo, công nhận tín chỉ, liên thông chương trình với các trường đại học nước ngoài có uy tín để thu hút sinh viên, nhà khoa học nước ngoài đến học tập và nghiên cứu tại Việt Nam.

Phát triển hoạt động liên doanh, liên kết với các trường đại học trên thế giới trong việc tuyển sinh, đào tạo đại học cho sinh viên Việt Nam ở các cơ sở giáo dục – đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và tại các nước khác như mô hình nhiều trường đại học của Việt Nam đã áp dụng. Phát triển các dự án nghiên cứu liên quốc gia nhằm tăng cường học tập và trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Từng bước triển khai các hoạt động dịch vụ, tăng nguồn thu cho nhà trường thông qua hợp tác quốc tế. Mở rộng quyền tự chủ, có cơ chế chính sách khuyến khích các đơn vị và cá nhân về hợp tác quốc tế trong khuôn khổ luật pháp. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và các trường đại học để tìm kiếm các nguồn học bổng tài trợ cho cán bộ, giảng viên đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, tài trợ học bổng cho sinh viên xuất sắc hoặc hoàn cảnh khó khăn.

Tăng cường các hoạt động tìm kiếm chuyên gia, giảng viên, tình nguyện viên nước ngoài về làm việc tại Việt Nam. Tăng cường các hoạt động tư vấn du học, tìm kiếm các nguồn kinh phí để tài trợ cho nghiên cứu khoa học, cử cán bộ, giảng viên có trình cao đi giao lưu khoa học với nước ngoài. Khuyến khích các giảng viên, các nhà khoa học làm công tác hợp tác quốc tế nhằm tạo ra mạng lưới cộng tác viên trong hợp tác quốc tế với chính sách động viên, khen thưởng kịp thời; đồng thời chủ động bồi dưỡng chuyên môn và trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách; tăng cường ký kết thỏa thuận hợp tác với các nước thuộc khu vực ASEAN; mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.

Ba là, phát huy tính tích cực tự giác của các chủ thể nghiên cứu khoa học trong các học viện, trường đại học và cơ quan nghiên cứu khoa học.

Phát huy vai trò của các chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý ở các học viện, trường đại học, cao đẳng và cơ quan nghiên cứu khoa học trong triển khai, tổ chức thực hiện hoạt động khoa học – công nghệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ thông qua hoạt động của các chủ thể nghiên cứu khoa học và được ứng dụng khoa học vào sản xuất tạo ra sản phẩm lao động kết tinh trong đó những hàm lượng khoa học, trí tuệ, chất xám. Do đó, các học viện, trường đại học, cao đẳng và cơ quan nghiên cứu khoa học phải tiến hành nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ khoa học – công nghệ theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục và các quy định khác của pháp luật.

Phát huy vai trò tích cực, chủ động của các chủ thể của cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền ở các học viện, trường đại học, cao đẳng và cơ quan nghiên cứu khoa học trong quán triệt, triển khai, tổ chức, thực hiện, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ. Cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp, trước hết là người đứng đầu chịu trách nhiệm thúc đẩy phát triển, ứng dụng khoa học – công nghệ thuộc phạm vi quản lý của mình.

Thường xuyên tổ chức các cấp hội thảo khoa học có chiều sâu trong các học viện, trường đại học, cao đẳng và cơ quan nghiên cứu khoa học hướng đến phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Chỉ đạo các học viện, trường đại học, cao đẳng và cơ quan nghiên cứu khoa học chủ động và tích cực mở rộng liên kết nghiên cứu khoa học, thành lập được nhóm nghiên cứu có khả năng tiếp cận các hướng nghiên cứu có thế mạnh để đủ khả năng hợp tác nghiên cứu khoa học với các chuyên gia nước ngoài. Cần triển khai và mở rộng các hoạt động hợp tác; ưu tiên đối tác có nhu cầu hợp tác nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ. Tập trung xây dựng các chương trình hợp tác nghiên cứu chung thông qua các đề tài, đề án; tăng cường các công bố khoa học chung, nhất là các công bố quốc tế từ kết quả hợp tác nghiên cứu với nước ngoài.

Xây dựng môi trường dân chủ, đạo đức trong hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ. Đề cao các ý tưởng nghiên cứu của đội ngũ các nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Khuyến khích, động viên kịp thời đội ngũ nghiên cứu có năng lực, có lòng đam mê để họ sẵn sàng cống hiến, hy sinh hiện thực hóa ý tưởng nghiên cứu khoa học, đáp ứng tốt cho công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giữa các cơ sở giáo dục – đào tạo trong các học viện, trường đại học, cao đẳng và trong các cơ quan nghiên cứu khoa học với các địa phương, doanh nghiệp để một mặt tránh gây lãng phí các nguồn lực, đồng thời, tranh thủ các nguồn lực phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, nhất là nguồn lực tài chính để hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp với các trường đại học nước ngoài qua các dự án, đề tài nghị định thư, hợp tác song phương, tạo điều kiện cho các đơn vị, cá nhân mở rộng quan hệ tìm kiếm các dự án hợp tác quốc tế.

Kết hợp giữa tôn vinh những sáng kiến, phát minh khoa học của đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ với yêu cầu cao trong đánh giá khách quan sản phẩm khoa học. Xây dựng hoàn thiện các cơ chế, chính sách đãi ngộ, biểu dương, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ, nhất là trí thức, người lao động sáng tạo và tài năng trẻ, các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời tạo điều kiện để các nhà khoa học tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh.

4. Kết luận

Khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Vai trò của khoa học đối với phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam là toàn bộ tác dụng, chức năng của khoa học trong định hướng và trở thành động lực trực tiếp thực hiện cách mạng hóa nguồn nhân lực, thông qua các nhân tố của quan hệ sản xuất xâm nhập vào hợp lý hóa các yếu tố trong dây chuyền sản xuất và tạo sức mạnh tổng hợp cho phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam góp phần đưa năng suất lao động lên cao. Khoa học phải thực sự là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Khoa học là yếu tố cơ bản bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Khoa học góp phần trực tiếp đến giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế. Khoa học góp phần trực tiếp tạo ra tiềm lực quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Chú thích:
1. C.Mác toàn tập (2006). Tập 46 (phần II). H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 372.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 335.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Đức Hiển (2011). Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Triết học.  Số 1/2011.
2. Phùng Văn Thiết (2002). Kinh tế tri thức – sự phát triển cao của lực lượng sản xuất. Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1/2002.
3. Phạm Thị Ngọc Trầm (2008). Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác và vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Triết học, số 8/2008 (207).