Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì con người theo tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 

TS. Vũ Thị Thu Quyên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(Quanlynhanuoc.vn) – Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố và khẳng định với thế giới một sự thật hiển nhiên Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Tư tưởng của Người thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiếp tục giành thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và mở rộng, phát triển vượt bậc những giá trị của các bản tuyên ngôn trước đó trong thời đại mới; đồng thời, thể hiện giá trị to lớn về quyền con người và ý nghĩa đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì con người hiện nay.

Từ khóa: Tuyên ngôn Độc lập; Chủ tịch Hồ Chí Minh; con người; quyền con người; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

1. Quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945

Sau khi Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 (viết tắt là Tuyên ngôn Độc lập) được vang lên trên Quảng trường Ba Đình, cho đến hôm nay, bản thiên anh hùng ca ấy vẫn truyền cảm hứng cho bao thế hệ người dân Việt Nam trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. Tuyên ngôn có ý nghĩa quan trọng khẳng định giá trị về tư tưởng chính trị, pháp quyền, về quyền con người, quyền dân tộc, là nền tảng tinh thần, vũ khí lý luận dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đến những thắng lợi to lớn. Đặc biệt, về phương diện quyền con người, những tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn Độc lập có giá trị định hướng sâu sắc đối với tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, trong Tuyên ngôn Độc lập, quyền con người được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận và khái quát để từ đó chỉ ra quyền dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con người là tất yếu tự nhiên, là quyền mà tạo hóa đã ban cho con người như quyền được sống tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, ngay từ những từ mở đầu của Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn lại một số câu của Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (năm 1776): “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”1 và một số câu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (năm 1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”2. Trên cơ sở dẫn những lời bất hủ của hai bản Tuyên ngôn tư sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận đanh thép: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”3. Đó là một logic biện chứng có sức sống và có giá trị trường tồn, là một tất yếu không thể phủ nhận.

Thứ hai, để xác lập quyền dân tộc và đấu tranh cho quyền dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ quyền con người, Người không đi trực tiếp vào quyền dân tộc mà phải thông qua quyền con người. Theo Người, quyền con người chính là cơ sở nền tảng để thiết lập quyền dân tộc. Từ quyền con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do của mỗi dân tộc được sinh ra trên thế giới này là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, là “những lẽ phải không ai chối cãi được”, đó là “nhân đạo và chính nghĩa”4. Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng sự trải nghiệm quốc tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam đều có những quyền chính đáng đó; không ai có thể tước đoạt được và nếu bị tước đoạt, cả dân tộc sẽ kiên cường, đoàn kết, kiên trì chiến đấu để giành lại và quyết tâm bảo vệ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với quốc dân và bạn bè thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”5. Tuyên bố đó đã thể hiện ý chí và khí phách của dân tộc Việt Nam “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”6. Đó cũng là lời hịch truyền gửi đến muôn đời con cháu mai sau với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Khi đặt quyền con người gắn bó với quyền dân tộc và không tách khỏi quyền dân tộc, nghĩa là Người đã nhìn thấy được mối quan hệ biện chứng, thống nhất giữa quyền con người và quyền dân tộc. Quyền dân tộc được phản ánh trên cơ sở truyền thống văn hóa, đạo pháp tự nhiên làm cho con người được thụ hưởng những giá trị vật chất và tinh thần, vì vậy, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh việc giải phóng dân tộc không bao giờ tách khỏi việc giải phóng con người và giải phóng con người nhất quyết phải nằm trong giải phóng dân tộc. Người từng nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”7.

Thứ ba, Người đã vận dụng quyền tự do của cá nhân trong Tuyên ngôn Độc lậpcủa Mỹ (năm 1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyềncủa Cách mạng Pháp (năm 1791) để nâng lên thành quyền tự do cho cộng đồng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người được nhìn nhận từ hai phương diện,đó là cá nhân và cộng đồng. Từ giá trị lý luận về quyền con người trong hai bản tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền con người của cộng đồng – dân tộc. Chính sự khẳng định này, Người thực sự là một nhà mácxít sáng tạo, đã đưa lý luận xâm nhập vào thực tiễn, soi sáng thực tiễn và thực tiễn hóa lý luận mà cụ thể là lý luận về quyền con người trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp đã xuất hiện vào cách mạng Việt Nam, từ đó nhanh chóng trở thành một khái niệm mới về quyền dân tộc. 

2. Bảo đảm quyền con người là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở chủ quyền của Nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân cũng như công bằng, bình đẳng trong xã hội

Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ khai sinh nước Việt Nam mới mà còn là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và định hướng con đường cách mạng Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia, dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền là xu thế mang tính tất yếu của xã hội hiện đại; theo đó mỗi quốc gia sẽ có một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, nhận thức về nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng chưa thống nhất, còn những ý kiến khác nhau; tuy nhiên, điểm chung đó là: nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là một phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.

Trải qua các kỳ đại hội cùng với kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình lãnh đạo, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa mang giá trị tiến bộ của nhân loại, vừa có các đặc trưng của Việt Nam. Đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”8. Sự khẳng định cho thấy, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả và phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Đây được xem là một trong những “mắt xích” quan trọng nhằm hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở chủ quyền của Nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân cũng như công bằng, bình đẳng trong xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đang xây dựng phục vụ cho yêu cầu bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật, hạn chế sự tùy tiện của Nhà nước, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, phát huy chủ quyền nhân dân và kiến tạo phát triển xã hội. Theo đó, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải luôn bảo đảm các đặc trưng: (1) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (2) Quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhân dân, luôn thống nhất, được tổ chức khoa học, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; (3) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm, bảo vệ tốt quyền con người, quyền công dân; (4) Cơ quan lập pháp hoạt động chuyên nghiệp và hiệu quả; hoạt động của cơ quan hành pháp phải công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, hành động, kiến tạo phát triển, phục vụ tốt; cơ quan tư pháp liêm chính, độc lập trong xét xử; bảo đảm quyền tiếp cận công lý; (5) Hệ thống pháp luật dân chủ, văn minh, tiến bộ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; (6) Văn hóa pháp lý, văn hóa pháp quyền luôn được coi trọng và phát huy sâu rộng; (7) Nhà nước thực hiện tốt các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc, pháp luật quốc tế. 

Trên phương diện lập hiến, Hiến pháp năm 2013 đã quy định những vấn đề căn cốt của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó quyền con người, quyền công dân đã được khẳng định rõ tại Điều 14 Chương 2: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Vấn đề coi trọng quyền con người không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân mà còn là tôn chỉ hoạt động, là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

3. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì con người 

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vì con người là xây dựng một nhà nước hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm công bằng, nhân đạo và pháp luật được thực hiện nghiêm minh, nhất quán và được thể hiện:

Một là, trong Nhà nước pháp quyền XHCN, quyền con người được ghi nhận và khẳng định trong pháp luật và đời sống xã hội.

Quyền con người luôn là đối tượng được phản ánh thông qua các quy định pháp luật và chỉ thông qua pháp luật thì quyền con người mới được ghi nhận, bảo đảm và thực hiện trên thực tiễn. Do đó, yêu cầu đặt ra cần thể chế hóa chính sách của Đảng, trên nền tảng các chuẩn mực quốc tế, tạo dựng hành lang pháp lý nhằm tăng cường việc trao quyền và thụ hưởng quyền của các cá nhân trong xã hội. Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, tiến bộ thể hiện ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân, là công cụ thực hiện quyền lực của Nhân dân, thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước trên cơ sở Nhân dân là chủ thể tối cao, duy nhất của quyền lực nhà nước, Nhân dân thiết lập và ủy quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Nhân dân có quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội, có quyền quyết định tối cao và cuối cùng những vấn đề quan trọng của đất nước. Nhà nước phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định của Nhân dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân.

Ghi nhận và khẳng định quyền con người là việc Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Nói cách khác, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chính là sự thừa nhận của Nhà nước đối với các giá trị phổ biến của quyền con người. Điều này góp phần khẳng định quyền con người đã được Nhà nước ghi nhận bằng pháp luật, là cơ sở cho các chủ thể tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể và toàn diện hơn các quyền của con người; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong Nhà nước XHCN Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã quy định chủ thể rộng nhất của quyền con người là quyền của các cá nhân xứng đáng được hưởng không kể quốc tịch. Chủ thể hưởng thụ các quyền không chỉ có công dân mà bao gồm tất cả mọi người.

Cùng với Hiến pháp năm 2013, những nội dung về quyền con người không ngừng được cụ thể hóa trong các đạo luật và văn bản pháp quy của Việt Nam. Các văn bản quy pháp pháp luật này đã “nội luật hóa” một cách toàn diện những Công ước Quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập. Những năm qua, Việt Nam đã ban hành hàng trăm văn bản luật và dưới luật, trong đó có những đạo luật trực tiếp liên quan tới lĩnh vực quyền con người. Pháp luật về quyền con người ở Việt Nam hiện nay đã và đang tạo lập sơ sở pháp lý nhằm bảo vệ, bảo đảm hiệu quả các quyền con người trên các phương diện dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Đồng thời, việc ghi nhận bằng pháp luật các quyền con người thể hiện trách nhiệm của các chủ thể và của Việt Nam trong thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người.

Hai là, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam quyền con người được tôn trọng và bảo vệ.

Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quyền con người được tôn trọng nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Đây là minh chứng thiết thực nhất trong tôn trọng quyền con người, là tiền đề để thực hiện các cam kết quốc tế. Nhà nước bảo đảm các hành vi của những chủ thể có thẩm quyền không xâm phạm quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Bằng pháp luật, quy định này đã chấm dứt tình trạng hạn chế quyền con người một cách tùy tiện, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tôn trọng các giá trị khách quan phổ biến của cá nhân trong một xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ, văn minh.

Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cùng với việc kiềm chế không can thiệp (kể cả trực tiếp và gián tiếp) vào thực hiện các quyền con người, Nhà nước phải chủ động xây dựng và triển khai, thực hiện có hiệu quả các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển và biện pháp quản lý cụ thể để mọi người được thụ hưởng và phát triển các quyền của mình trong thực tế. Điều này cho thấy, Nhà nước luôn chú trọng đến hoạt động này nhằm nâng cao tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật thông qua các hoạt động cơ bản, như: (1) Cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp, các đạo luật vào các văn bản dưới luật nhằm bảo đảm các quyền con người; (2) Xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển gắn với bảo đảm quyền con người; (3) Trực tiếp áp dụng các biện pháp phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng ngành, từng địa phương nhằm nâng cao năng lực hưởng thụ các quyền của người dân, đặc biệt là của các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương. 

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền con người phải được bảo vệ. Theo đó, bảo vệ quyền con người là việc áp dụng các chế tài pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền con người, từ đó phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi tái phạm, vi phạm mới. Đây chính là cơ sở để các chủ thể tôn trọng quyền con người trong xã hội. Mọi hành vi xâm phạm đến các quyền con người dù từ phía các cá nhân hay các cơ quan nhà nước phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Ở Việt Nam, nhiệm vụ bảo vệ, bảo đảm quyền con người được xác định là của cả hệ thống chính trị.

Để thực hiện nhiện vụ đó, Nhà nước phải từng bước xây dựng hành lang pháp lý về phương thức vận hành của các thiết chế bảo vệ quyền con người tốt nhất, hạn chế những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thể hiện qua các cấp độ khắc nhau (phòng ngừa; hỗ trợ và can thiệp). Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, như: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước chú trọng đến điều chỉnh cơ cấu tổ chức, quy chế hoạt động, kiện toàn đội ngũ, cán bộ để làm cho bộ máy hoạt động thông suốt hiệu quả;… Hoạt động hành chính nhà nước và hoạt động xét xử phải đặt người dân vào vị trí trung tâm. Trên cơ sở đó, cần xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, quản lý nhà nước có hiệu quả, giảm thiểu, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, đáp ứng tốt nhất yêu cầu chính đáng của người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, đề cao vị trí, vai trò của cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong hệ thống chính trị; có cơ chế phù hợp bảo đảm độc lập tư pháp. Các cơ quan này hoạt động độc lập trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm đưa ra những chế tài từ dân sự, hành chính đến hình sự để áp dụng với các chủ thể vi phạm. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tiếp tục nghiên cứu các mô hình, cơ chế bảo vệ quyền con người nhằm tìm ra mô hình tối ưu, phù hợp với đặc thù chính trị Việt Nam. 

Chú thích:

1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 1, 1, 1, 1, 3, 534, 175.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 11.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

2. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.