Nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong kỷ nguyên mới

TS. Đới Văn Tặng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trong việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, đáp ứng yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay.

Từ khóa: Kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, kỷ nguyên phát triển mới, tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng

Là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”. Người luôn coi kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là một khâu quan trọng trong toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người chỉ rõ cách“Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1- Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng… 2- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng… 3- Phải tổ chức sự kiểm soát”1. Trong cách lãnh đạo đúng, Người chỉ dẫn: “Có kiểm tra mới huy động tinh thần tích cực và lực lượng to tát của Nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”2. Theo Người, mục đích của công tác kiểm tra chính là phát hiện những hạn chế, bất cập, thiếu sót trên mọi phương diện trong quá trình tổ chức thực hiện để hoàn thành tốt nhất công việc đề ra. Thông qua kiểm soát, những hạn chế, khuyết điểm đều được phát hiện và khắc phục kịp thời; nhờ có kiểm tra mà biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu, mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan, của các mệnh lệnh và nghị quyết.

Đồng thời, công tác kiểm tra còn được Hồ Chí Minh coi là một trong ba nhân tố quyết định đến sự thành công của mọi công việc. Người chỉ rõ: “Khi có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”3. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như chúng ta đã có ngọn đèn pha, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng, chín phần mười khuyết điểm trong công việc chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra. Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm. Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng (ngày 29/7/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho Nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”4. Theo Người, trong công tác kiểm tra thì chủ yếu là kiểm tra cán bộ thực hiện Điều lệ Đảng và nghị quyết của Đảng, kiểm tra bao giờ cũng đi liền với kỷ luật trong Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chăm lo vấn đề kiểm tra, mà Người còn quan tâm đến vấn đề kỷ luật đảng, vai trò của kỷ luật của Đảng trong công tác xây dựng Đảng. Người chỉ rõ: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng viên”5. Hồ Chí Minh khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”6. Người đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên càng có công thì càng phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”7. Người yêu cầu đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật của Đảng mà còn “phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách mạng, của nhân dân”; họ “tưởng là đảng viên thì muốn làm trời làm đất thì làm”8. Các đảng viên, cán bộ đó “không biết kỷ luật của chính quyền, của đoàn thể, nhân dân và Đảng cũng là một”9.  Theo Người, đối với mọi đảng viên cộng sản, khi nào và ở đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức đảng, phải hành động theo phạm vi kỷ luật của tổ chức, phải báo cáo, phải chấp hành nghị quyết, chỉ thị một cách nghiêm túc, đúng đắn, sáng tạo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Củng cố và tăng cường kỷ luật đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mọi đảng viên và mọi tổ chức đảng. Tăng cường kỷ luật đảng không phải là để kỷ luật cho nhiều đảng viên, mà chủ yếu là để nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức, tinh thần nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách thức, phương pháp kiểm tra, kỷ luật

Thứ nhất, cần phải vận động quần chúng Nhân dân tham gia vào công tác kiểm tra, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy, sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại”10. Theo Người, trong công tác kiểm tra nói riêng và trong mọi công tác nói chung cần phải xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, phải lắng nghe ý kiến của Nhân dân, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi; trái lại, xa rời Nhân dân, không xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, nhất định sẽ thất bại.

Thứ hai, công tác kiểm tra phải được thực hiện có hệ thống, phải làm thường xuyên. Nghĩa là khi đã có nghị quyết, chính sách thì phải lập tức đôn đốc, tổ chức thực hiện nghị quyết, chính sách ấy, “phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và Nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt qua mọi sự khó khăn”11; đồng thời, kiểm tra có liên quan mật thiết đến sự thành bại của công việc, nên cần phải được thực hiện thường xuyên, bền bỉ và có kế hoạch cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết.

Thứ ba, công tác kiểm tra phải được tiến hành tận nơi, sát người, sát việc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc kiểm tra không nên chỉ dựa vào hệ thống báo cáo, mà phải đi đến tận nơi, xem tận chỗ. Phương pháp trong kiểm tra là phải đi cơ sở nắm thông tin, tình hình; thẩm tra, xác minh, phân tích, đánh giá để kết luận vụ, việc khách quan, chính xác. Chủ thể kiểm tra phải sử dụng các phương pháp cả kiểm tra trực tiếp và kiểm tra gián tiếp để bảo đảm tính tập trung, dân chủ, nhằm đưa ra những quyết định và các biện pháp xử lý đúng tính chất vụ, việc. Người từng thẳng thắn phê phán: “Nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”12.

Thứ tư, sử dụng cách thức tự phê bình và phê bình trên tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phải gắn với tự phê bình và phê bình để giáo dục, thuyết phục, uốn nắn đảng viên, cán bộ và định hướng công tác lãnh đạo của các tổ chức, cơ sở, tạo điều kiện phát huy dân chủ trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan quản lý của Nhà nước. Công tác kiểm tra gắn với tự phê bình và phê bình là một giải pháp khoa học nhằm làm cho mỗi tổ chức, cơ sở vững mạnh, cán bộ, đảng viên luôn giữ vững định hướng chính trị, nhận thức tư tưởng, trau dồi phẩm chất đạo đức trong sáng; đồng thời, chủ động cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm của cán bộ, đảng viên trong quá trình công tác. Do đó, đối với cán bộ làm công tác kiểm tra, Người đã lưu ý và nhấn mạnh: “Đặc biệt là phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng… Như thế thì mới làm tốt được công tác kiểm tra”13.

Thứ năm, trong quá trình kiểm tra cần phải thực hiện kiểm tra từ trên xuống và từ dưới lên. Kiểm tra từ trên xuống nghĩa là người lãnh đạo kiểm tra kết quả công việc của cán bộ mình quản lý; còn kiểm tra từ dưới lên tức là quần chúng Nhân dân và cán bộ cấp dưới kiểm soát công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp trên, đề xuất giải pháp khắc phục, sửa chữa nếu phát hiện thấy hạn chế, sai lầm, khuyết điểm.

Đặc biệt, kiểm tra đi liền với công tác kỷ luật của Đảng. Bởi theo Người, “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây ngấm vào trong Đảng”. Do vậy, kỷ luật trong đảng là một tất yếu khách quan, để ngăn chặn khuyết điểm, sai lầm; sửa chữa thói hư, tật xấu; thải loại những kẻ thoái hóa, biến chất; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Về phương pháp tự kiểm tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra, mới đủ kinh nghiệm và oai tín”14.

Về kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”, ai ai cũng phải phục tùng kỷ luật và chịu các hình thức kỷ luật (nếu như có khuyết điểm sai lầm). Người quan niệm: Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm. Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa và cũng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa những khuyết điểm sai lầm. Phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ vi phạm để có hình thức kỷ luật thích đáng. Bác chỉ rõ “Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách giải thích, thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất loạt không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng”15. Để bảo đảm xử phạt chính xác, cần phân tích rõ ràng các nguyên nhân dẫn đến sai lầm, khuyết điểm, phải xét kỹ lưỡng tính chất của sai phạm để quyết định hình thức kỷ luật. Muốn vậy, phải làm tốt công tác thẩm tra xác minh, mặt khác phải nhấn mạnh đến biện pháp dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình nhằm làm cho kỷ luật đạt được mục đích, để người có lỗi lầm “tâm phục, khẩu phục”. Phương châm thi hành kỷ luật trong Đảng phải công minh, chính xác, kịp thời và bảo đảm dân chủ. Mọi vi phạm đều phải được xem xét, nếu đến mức phải thi hành kỷ luật thì xử lý thích đáng, không được che đậy, thiên lệch, nể nang.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng đã trở thành mệnh lệnh hành động xuyên suốt trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, công tác kiểm tra, kỷ luật đều được quan tâm và điều chỉnh phù hợp về chức năng, nhiệm vụ để thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước. Nhìn lại chặng đường cách mạng của Đảng, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng thể hiện chủ yếu trên ba mặt sau: Một là, trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng; Hai là, trong hoạt động thực tiễn của Đảng nói chung và của ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra nói riêng; Ba là, trong việc tổng kết, đánh giá công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng hằng năm và các nhiệm kỳ. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”16.

Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy định quan trọng Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 30/7/2007 Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 14/02/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng; Quy định số 86-QĐ/TW ngày 01/6/2017 của Bộ Chính trị (khóa XII) về giám sát trong Đảng; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Hướng dẫn số 02-HD/TW ngày 09/12/2021 của Ban Bí thư thực hiện một số nội dung Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Kết luận số 34/KL-TW ngày 18/4/2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới….

Đây là cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vào cuộc sống và thực hiện thống nhất trong toàn Đảng. Đồng thời, hoạt động xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cũng là góp phần hoàn thiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong tình hình mới. Cụ thể hóa nguyên tắc về phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và trong hệ thống chính trị, tránh bị chồng chéo. Qua đó, đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.

Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tăng cường chỉ đạo, tích cực, chủ động, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, lựa chọn đối tượng, lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và Nhân dân quan tâm để kiểm tra, giám sát. Theo số liệu tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, từ 01/7/2012 – 31/3/2022, qua công tác kiểm tra, giám sát, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.741 tổ chức đảng, 17.748 đảng viên; trong đó, có 7.393 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và cấp ủy có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật hơn 170 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hơn 50 sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ sau Đại hội XIII của Đảng đến tháng 6/2022 đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý. Trong đó có 8 ủy viên và nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sỹ quan cấp tướng. Cùng với kỷ luật của Đảng, các cơ quan nhà nước đã tiến hành kỷ luật hành chính tương xứng, đảm bảo kịp thời, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự. Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng

Tuy nhiên, những năm gần đây, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế, yếu kém, bất cập; chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời; trong công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu giúp việc các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm.

Qua khảo sát, nghiên cứu cho thấy, một số cấp uỷ, tố chức đảng, UBKT các cấp chưa nhận thức đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác này nên chưa tổ chức thực hiện có hiệu quả trong hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp mình. Có nơi, có lúc nhận thức được thì việc vận dụng còn máy móc, giáo điều, chủ quan, duy ý chí, dẫn đến có hành động nóng vội, giản đơn, chạy theo thành tích. Một số cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ còn xem nhẹ về phương pháp tự kiểm tra, nên việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn yếu, dẫn đến nhận thức về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng chưa đầy đủ nên chưa quan tâm đúng mức, đúng tầm đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, thậm chí còn cản trở việc kiểm tra hoặc không chịu trách nhiệm khi kiểm tra. Bên cạnh đó, việc xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng

Để chủ động học tập, vận dụng, phát triển và thực hành một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, các cấp uỷ Đảng cần tổng kết thực tiễn và đổi mới phương thức công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong bối cảnh mới, trong đó chú trọng các giải pháp sau:

Một là, phải nâng cao nhận thức của tổ chức đảng và đảng viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục tác động vào nhận thức của cán bộ, đảng viên tổ chức đảng và quần chúng Nhân dân. Thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật để cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và quần chúng Nhân dân nhận thức được vai trò quan trọng của mình góp phần đắc lực giúp tổ chức đảng tại đơn vị, cơ quan và nơi sinh sống làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật. Nắm vững được các quy định của Đảng, quy chế, quy trình trong hoạt động kiểm tra, giám sát và quan điểm, đường lối của Đảng trong thực hiện các nhiệm vụ, chức năng trong kiểm tra, giám sát, kỷ luật.

Hai là, phải coi kiểm tra, giám sát trong Đảng là một nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng quy trình chuẩn, đồng bộ và có tính hệ thống để tất cả cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và quần chúng Nhân dân nắm được. Và công tác này phải được tiến hành một cách thường xuyên và đồng bộ từ trên xuống dưới, tránh tình trạng thực hiện qua loa, chiếu lệ hoặc coi nhẹ công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Ba là, phải nhấn mạnh đến yếu tố con người theo đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lựa chọn cán bộ sai thì sẽ dẫn đến việc thực hiện đường lối, chính sách cũng sai. Vì vậy, cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật phải là những con người ưu tú, tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, phải là những con người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, bởi kiểm tra, giám sát, kỷ luật là một công việc khó khăn, phức tạp và có tính nhạy cảm cách mạng cao vì vậy đòi hỏi người làm công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải tinh tế, nhạy bén, hết mình vì lợi ích chung, phải là những con người có đạo đức cách mạng trong sách, có lý trí cách mạng vững vàng, kiên cường.

Bốn là, việc xây dựng chương trình, kế hoạch, mục đích công tác kiểm tra, giám sát phải trọng tâm, đúng thời điểm, phải sát và trúng. Điều này để thực hiện được không phải là dễ dàng vì vậy phải có sự kết hợp giữa các cơ quan, ban ngành, các tổ chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Năm là, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật muốn thực hiện được tốt, được trúng và đúng phải có sự hỗ trợ của quần chúng Nhân dân. Bởi ở đâu, khi nào nếu có được sự đồng lòng của quần chúng Nhân dân thì mọi việc sẽ được thực hiện một cách trơn tru, dễ dàng. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật là một hoạt động không nằm ngoài quy luật đó. Bất cứ mọi hoạt động nào của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cũng không bao giờ qua được con mắt của quần chúng Nhân dân. Vì vậy, trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật nếu được sự đồng lòng ủng hộ của quần chúng Nhân dân sẽ mang lại nhiều hiệu quả thiết thực.

Sáu là, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật cần được tiến hành đồng bộ, nhất quán từ trên xuống dưới theo phương châm “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

Bảy là, công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục vi phạm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải cương quyết xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời để răn đe, giáo dục.

Trong bối cảnh thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế, Đảng luôn khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên tìm tòi, năng động, sáng tạo; đồng thời, đề cao bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt, bảo vệ những cán bộ hết mình vì sự nghiệp chung. Mặt khác, khắc phục tư tưởng ỷ lại, cho rằng việc xử lý các vụ việc qua công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, công tác phòng, chống tham nhũng đã làm nhụt chí phấn đấu của cán bộ, đảng viên; ngược lại, có làm tốt, có chủ động phát hiện vi phạm khi mới manh nha, nếu vi phạm đến mức xử lý thì kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời mới hạn chế được vi phạm, từ đó nâng cao uy tín của Đảng và cơ quan Nhà nước, góp phần phát triển kinh tế – xã hội.

5. Kết luận

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra là một hệ thống những quan điểm quan trọng và có ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng và công tác xây dựng Đảng. Lý luận về kiểm tra, kỷ luật đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới.

Chú thích:
1, 2, 6, 10, 11, 12, 14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 325 – 326; 636; 553; 637; 636 – 637; 636 – 637; 521.
3. Hồ Chí Minh: Về Đảng Cộng sản Việt Nam (1993). Tập 2.  H. NXB. Chính trị quốc gia, tr.53.
4, 13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 362; 363 – 364.
5, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật. tr. 311; 311.
8, 9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.31; 31.
15. Hồ Chí Minh toàn tập (1995). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 284.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 197 – 198.