Phát triển làng nghề truyền thống ở tỉnh Ninh Bình trong kỷ nguyên phát triển mới

ThS. Đới Gia Thiên Linh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

(Quanlynhanuoc.vn) –  Phát triển công nghiệp nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng, là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước; trong đó, phát triển làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong tạo việc làm, nâng cao đời sống, thu nhập của người dân. Những năm qua, Ninh Bình đã có nhiều giải pháp tập trung phát triển làng nghề truyền thống, đây là nguồn nội lực giúp địa phương phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng nông thôn mới. Việc xây dựng nông thôn mới gắn với củng cố, phát triển làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế và xã hội của tỉnh Ninh Bình hiện nay.

Từ khóa Ninh Bình, làng nghề truyền thống, nông thôn mới, kỷ nguyên phát triển mới.

1. Đặt vấn đề

Nhằm định mục tiêu, định hướng phát triển nông nghiệp, nông dân, và nông thôn trong giai đoạn tới, ngày 16/6/2022 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó xác định: “Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn”, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ: “Phát triển mạnh công nghiệp ở nông thôn, đầu tư phát triển làng nghề, thực hiện bảo tồn, phát triển các ngành nghề, làng nghề, dịch vụ nông thôn, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái; đẩy mạnh thực hiện hiệu quả chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống; chú trọng đào tạo, tôn vinh nghệ nhân ở nông thôn”.

Triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 07/7/2022 Phê duyệt “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030”. Đây là tiền đề, điều kiện quan trọng giúp bảo tồn và phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn, tạo sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn; tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề phát triển bền vững gắn với các hoạt động du lịch, văn hóa, lễ hội truyền thống nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa lịch sử; tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất của người dân nông thôn, góp phần thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.

2. Tình hình phát triển làng nghề truyền thống của Ninh Bình những năm qua

Ninh Bình là tỉnh phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, là nơi có nhiều làng nghề truyền thống mang giá trị lịch sử lâu đời, mang đậm nét tinh hoa của người Việt, được Nhân dân giữ gìn và phát triển qua nhiều thế hệ… Mặc dù hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh của khoa học – công nghệ và công nghiệp hiện đại nhưng các làng nghề truyền thống ở Ninh Bình tiếp tục phát huy giá trị to lớn nhằm giữ gìn, phát triển ngành nghề trong kỷ nguyên phát triển mới.

Hiện nay, tỉnh Ninh Bình đã lưu giữ, bảo tồn và phát triển các làng nghề tiêu biểu, như: Làng nghề chạm khắc đá Ninh Vân; làng nghề cói Kim Sơn; làng nghề thêu ren Văn Lâm; làng nghề gốm Gia Thủy; làng nghề gốm Bồ Bát; làng nghề mộc Phúc Lộc; làng nghề Sinh Dược; làng nghề mây tre đan Ngọc Động; làng lụa Nha Xá; làng nghề làm trống Đọi Tam; làng nghề cây cảnh Vị Khê; làng nghề chạm khắc gỗ La Xuyên; làng nghề đúc đồng Tống Xá… Đây là nguồn lực dồi dào cho phát triển công nghiệp – dịch vụ ở địa phương, đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế trong tỉnh. Với mục tiêu duy trì và bảo tồn nghề, làng nghề, làng nghề truyền thống gắn với xây dựng nông thôn mới, các địa phương trong tỉnh đã lồng ghép các nguồn vốn để tổ chức đào tạo nghề, hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá, phát triển thị trường, đầu tư hạ tầng phục vụ phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn.

Với nguồn nguyên liệu sẵn có tại Ninh Bình, cùng với kỹ năng của những thợ lành nghề, nghệ nhân, những sản phẩm chế tác tinh sảo của làng nghề trong tỉnh đã được xuất khẩu trên khắp thị trường trong nước và quốc tế. Các sản phẩm của làng nghề ngày càng phong phú, đa dạng về mẫu mã, chất lượng ngày càng được nâng cao, được khách hàng ưa chuộng. Làng nghề truyền thống của tỉnh Ninh Bình không chỉ thu hút và giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, làm gia tăng nguồn thu nhập chính của các hộ gia đình, mà còn góp phần khẳng định thương hiệu sản phẩm, vị thế kinh tế của tỉnh đối với thị trường trong nước và khu vực, cũng như trên thế giới. Chính vì vậy, việc xây dựng nông thôn mới gắn với củng cố, phát triển làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống có ý nghĩa rất lớn cả về kinh tế và xã hội của tỉnh.

Quán triệt và thực hiện Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 07/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hà Nam (cũ) đã ban hành Kế hoạch số 2986/KH-UBND ngày 04/11/2022 về bảo tồn và phát triển làng nghề tỉnh Hà Nam giai đoạn 2021-2030. Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, nhằm bảo tồn và phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2030. Kế hoạch của UBND đã xác định những nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể là: Khôi phục, bảo tồn và phát triển các nghề, làng nghề, làng nghề truyền thống tạo bước chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và lồng ghép xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại cho sản phẩm làng nghề tại thị trường có tiềm năng, phát triển mạnh về du lịch. Xây dựng, hình thành mô hình du lịch – làng nghề với mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo được các yếu tố phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bảo vệ môi trường sinh thái. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho các làng nghề; ứng dụng công nghệ, đưa công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất nâng cao giá trị sản phẩm ngành nghề nông thôn. Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng làng nghề, cải thiện môi trường sản xuất – kinh doanh, hạn chế tối đa các hoạt động gây suy giảm môi trường, khuyến khích phát triển môi trường xanh – sạch – đẹp ở nông thôn.

Đối với tỉnh Nam Định cũ trước khi sáp nhập tỉnh, cấp uỷ, chính quyền tỉnh đã quan tâm phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025. Ngày 28/8/2015, UBND tỉnh Nam Định đã phê duyệt Quy hoạch số 1705/QĐ-UBND về phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Trong quy hoạch đã nêu rõ, phát triển ngành nghề  thủ công nghiệp phải gắn liền với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, phù hợp với quy hoạch phát triển ngành công nghiệp của tỉnh; tăng cường bảo tồn, củng cố và phát triển các ngành nghề thủ công nghiệp với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, quy mô doanh nghiệp và các thành phần kinh tế; khuyến khích và tăng cường đầu tư trang thiết bị, ứng dụng khoa học, công nghệ sản xuất tiên tiến hài hoà với kỹ thuật truyền thống; giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Phát triển thủ công nghiệp phải trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế hiện có của địa phương, khai thác hiệu quả nguồn lao động nông thôn, tài nguyên, nguyên liệu sẵn có, gắn liền với hoạt động du lịch làng nghề, văn hóa, lễ hội mang bản sắc, đặc trưng của tỉnh. Phát triển ngành nghề thủ công nghiệp vừa đảm bảo việc lưu giữ, bảo tồn các yếu tố mang tính bản sắc văn hóa truyền thống của nghề, vừa có tính sáng tạo, hiện đại, gắn kết, đan xen trên sản phẩm; phát triển nghề phải đặc biệt quan tâm tới sự hài hòa giữa sản xuất với bảo vệ môi trường. Chú trọng xây dựng các khu vực sản xuất tập trung, kết hợp sản xuất tại các hộ gia đình; phát huy các làng nghề truyền thống lâu đời, có trình độ sản xuất cao; củng cố, hỗ trợ các làng nghề đang bị mai một và có nguy cơ không tồn tại.

Mục tiêu của tỉnh đề ra nhằm phát huy thế mạnh về lao động, đất đai, tài nguyên của tỉnh, khai thác các nguồn lực tại chỗ và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài đẩy mạnh phát triển ngành nghề thủ công nghiệp, xây dựng làng nghề mới. Tạo được sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống người dân ở khu vực nông thôn; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, góp phần tích cực thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh: “Xây dựng kinh tế của tỉnh Nam Định có bước phát triển nhanh, bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới”, nông thôn mới nâng cao.

Triển khai, thực hiện Nghị quyết 76/2025/UBTVQH15 ngày 14/4/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua về việc sắp xếp đơn vị hành chính năm 2025. Nghị quyết nêu rõ, việc nhập tỉnh với tỉnh để hình thành tỉnh mới; hoặc nhập tỉnh với thành phố trực thuộc trung ương để hình thành thành phố trực thuộc trung ương mới theo định hướng sắp xếp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhằm giảm số lượng, tăng quy mô đơn vị hành chính, mở rộng không gian phát triển, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của các địa phương.

Trước khi sáp nhập thành tỉnh Ninh Bình theo chỉ đạo của Trung ương, tỉnh Hà Nam có 58 làng nghề được công nhận đang hoạt động, trong đó (có 32 làng nghề truyền thống, 26 làng nghề), được chia theo 4 nhóm ngành nghề, gồm: chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản có 18 làng nghề (10 làng nghề truyền thống và 8 làng nghề); sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có 2 làng nghề truyền thống; sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ có 37 làng nghề (20 làng nghề truyền thống và 17 làng nghề); sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh có 1 làng nghề. Theo kết quả báo cáo của UBND tỉnh Hà Nam, “năm 2022, tổng số cơ sở sản xuất, kinh doanh ngành nghề trong làng nghề tại Hà Nam là 7.705 cơ sở (7.582 hộ gia đình, 121 doanh nghiệp và 02 HTX), với tổng doanh thu ước đạt 2.042 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho khoảng 15.919 lao động; thu nhập bình quân ước đạt 5,19 triệu đồng/người/tháng”1. Công tác xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu và phát triển làng nghề gắn với chương trình OCOP đã được các địa phương, làng nghề trong tỉnh tổ chức thực hiện. Đến nay, có 14/58 làng nghề có sản phẩm được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; có 6/58 làng nghề có sản phẩm được xếp hạng công nhận đạt sản phẩm OCOP hạng 3 sao cấp tỉnh trở lên.

Đối với tỉnh Ninh Bình cũ, toàn tỉnh có 77 làng nghề với nhiều sản phẩm đã tạo dựng được thương hiệu và uy tín trên thị trường, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 32/2022/NQ-HĐND ngày 15/7/2022 của HĐND tỉnh Ninh Bình, trong đó quy định về chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025. Theo đó,  ngày 29/3/2024, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 72 về “phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2024 – 2030”. Kế hoạch đã đề cập đến rất nhiều giải pháp, như: bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển làng nghề; hỗ trợ ứng dụng khoa học, công nghệ; Hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, đất đai, mặt bằng sản xuất, xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề; Đây được coi là tiền đề để các làng nghề trên địa bàn tỉnh phát triển một cách bền vững, đóng góp vào 1 trong 10 lĩnh vực công nghiệp văn hóa của tỉnh trong thời gian tới.

Nhìn một cách tổng thể, những năm gần đây, nhất là từ khi sáp nhập tỉnh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) thành tỉnh Ninh Bình (mới), cho thấy, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của các làng nghề truyền thống ở tỉnh Ninh Bình đã có sức hấp dẫn cao đối với du khách trong và ngoài nước, bởi sản phẩm đã được kết tinh những giá trị sáng tạo, đường nét tinh xảo; thể hiện sự khéo léo và tài hoa của nghệ nhân qua từng sản phẩm thủ công đặc trưng, như: làng nghề chạm khắc đá Ninh Vân, làng nghề cói Kim Sơn, làng nghề nghề thêu ren Văn Lâm, làng nghề gốm Gia Thủy, làng nghề đúc đồng Tống Xá, làng nghề chạm khắc gỗ La Xuyên, làng nghề dệt tơ lụa Cổ Chất, làng kèn đồng Phạm Pháo, làng nước mắm Sa Châu, làng mây tre đan Thạch Cầu, làng đèn ông sao Báo Đáp, làng cây cảnh Vị Khê, làng trống Đọi Tam, làng lụa Nha Xá, làng gốm Quyết Thành, làng mây tre đan Ngọc Động, làng nón Ân Khoái – Văn Quán…

Kết quả phát triển sản xuất kinh doanh của các làng nghề trên không gian tỉnh Ninh Bình mới, cho thấy: giá trị sản xuất của làng nghề ở Ninh Bình (trước ngày 01/7/2025), cụ thể: “Kinh doanh ngành nghề trong làng nghề tại Hà Nam cũ với “tổng doanh thu ước đạt 2.042 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho khoảng 15.919 lao động; thu nhập bình quân ước đạt 5,19 triệu đồng/người/tháng”2. Theo báo cáo thống kê, quy mô kinh tế tỉnh Nam Định năm 2024 theo giá “hiện hành ước đạt 113.329 tỷ đồng, tăng 14,78% so với năm 2023. GRDP bình quân đầu người giá hiện hành đạt 59,83 triệu đồng/người, tăng 14,35% so với năm trước, trong đó quần áo may sẵn tăng 18,7%; bàn ghế bằng gỗ các loại tăng 18,6%; giày, dép tăng 17,6%”3. Tỉnh Ninh Bình cũ, “năm 2024, tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2024 ước đạt 8,56% (tính theo giá so sánh năm 2010); GRDP bình quân đầu người ước đạt trên 96 triệu đồng; thu ngân sách đạt trên 19.200 tỷ đồng”4.

Trước khi sáp nhập tỉnh mới, toàn tỉnh Ninh bình cũ có 77 làng nghề với nhiều sản phẩm, các sản phẩm của làng nghề đã tạo dựng được thương hiệu và uy tín trên thị trường trong nước, quốc tế, như các làng nghề chế tác đá mỹ nghệ, thêu ren, chế biến cói, gốm sứ; để phát huy hiệu quả, uy tín đó,  UBND tỉnh Ninh Bình xây dựng, triển khai Đề án bảo tồn làng nghề; đẩy mạnh đào tạo nghề, truyền nghề, cấy nghề những nơi chưa có nghề; có chương trình khuyến công, hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ sản xuất, xử lý môi trường; hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật các làng nghề truyền thống thành những điểm du lịch hấp dẫn khách du lịch.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chương trình, mục tiêu phát triển nghề và làng nghề ở tỉnh Ninh Bình vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Hầu hết doanh nghiệp, làng nghề trên địa bàn đều có hoạt động ở quy mô nhỏ, gặp không ít những khó khăn, như: thiếu mặt bằng để sản xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm. Khả năng cạnh tranh sản phẩm của làng nghề còn thấp, nguồn nguyên liệu thiếu ổn định, chưa tạo được nhiều thương hiệu hàng hóa trên thị trường, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế. Trong khi, một số sản phẩm truyền thống bị mai một, suy giảm; kết cấu hạ tầng các làng nghề, nhất là đường giao thông xuống cấp, chưa đồng bộ, môi trường làng nghề bị ô nhiễm, chưa có biện pháp khắc phục có hiệu quả… Điều này trở thành lực cản đối với việc bảo tồn, phát triển các, nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh.

Ngoài việc phát triển nghề, các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh, cấp uỷ, chính quyền tỉnh Ninh Bình vẫn chưa có chiến lược đầu tư đồng bộ về kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các làng nghề gắn với phục vụ khách du lịch đến tham quan, mua sắm sản phẩm; các khu trưng bày giới thiệu sản phẩm, bãi đỗ xe, bãi thu gom rác thải chưa được hình thành toàn diện. Các cơ sở sản xuất chủ yếu vẫn là hộ kinh doanh gia đình nhỏ lẻ, chưa thực sự quan tâm tới việc liên kết tổ chức kinh doanh, xây dựng thương hiệu, quảng bá hình ảnh của nghề và làng nghề dẫn tới khả năng cạnh tranh thấp.

3. Một số giải pháp

Để đạt được mục tiêu phát triển làng nghề trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước, tỉnh Ninh Bình cần triển khai có hiệu quả một số giải pháp sau:

Một là, chủ động xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển công nghiệp hiện đại với thủ công nghiệp, chú trọng bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống phù hợp với tình hình, đặc điểm, mục tiêu phát triển của tỉnh; tập trung hỗ trợ làng nghề tạo ra sản phẩm có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường đặc biệt là những sản phẩm đã đăng ký nhãn hiệu, sản phẩm đặc trưng gắn với tên gọi địa phương; đẩy mạnh phát triển loại hình sản xuất, kinh doanh trong làng nghề, nhất là loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã để liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Phát triển du lịch gắn kết phát triển làng nghề truyền thống cả về quy mô và chất lượng sản phẩm.

Hai là, rà soát, đề xuất một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nghề, ngành nghề nông thôn, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh; xây dựng cơ chế chính sách phù hợp, hình thành khung cơ chế pháp lý cho phát triển sản phẩm OCOP theo chuỗi giá trị; những làng nghề phát triển khác nhau cần liên kết, thành lập mới các doanh nghiệp, hiệp hội, hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn nhằm hỗ trợ các thành viên trong sản xuất, thương mại, phát triển ngành nghề nông thôn cũng như gia tăng hiệu quả của chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; phát huy tính sáng tạo của người lao động, nhất là các nghệ nhân; tập trung vào xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm làng nghề cho du khách trong và ngoài nước.

Ba là, hỗ trợ xây dựng hạ tầng và bảo vệ môi trường làng nghề; đôn đốc, hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh xây dựng và triển khai phương án bảo vệ môi trường làng nghề theo quy định của pháp luật. Khuyến khích các cơ sở đầu tư cải tiến công nghệ, đưa công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm thiểu tác động môi trường; xây dựng vùng nguyên liệu tập trung gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Phát triển đa dạng các sản phẩm thủ công mỹ nghệ theo hướng thân thiện với môi trường; tăng cường công tác xúc tiến thương mại, xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề theo các chương trình, kế hoạch xúc tiến thương mại, chương trình làng nghề một sản phẩm OCOP… Đồng thời, tăng cường tổ chức cho các hợp tác xã tham khảo một số mô hình triển lãm, trung tâm sáng tạo để người dân đến tham quan, học tập, nghiên cứu, thực hành về công nghiệp sáng tạo.

Bốn là, chính quyền và các sở, ban ngành tăng cường công tác khuyến công và chuyển giao khoa học, công nghệ, ứng dụng công nghệ số vào sản xuất kinh doanh; hỗ trợ các cơ sở sản xuất làng nghề xây dựng website giới thiệu, quảng bá, xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề. Tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin thường xuyên về thị trường, những quy định về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, thị hiếu tiêu dùng để cơ sở sản xuất làng nghề có cơ sở định hướng sản xuất, xuất khẩu phù hợp. Xây dựng bộ tư liệu, thông tin về các làng nghề làm cơ sở quảng bá, phát triển du lịch làng nghề.

Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, khuyến khích liên kết, thu hút các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư cho các hoạt động bảo tồn và phát triển làng nghề tại địa phương; khuyến khích các nghệ nhân, thợ giỏi tham gia thiết kế mẫu mã tạo ra các sản phẩm nhằm giữ được nét truyền thống mà vẫn đáp ứng được thị hiếu và nhu cầu của thị trường; khuyến khích người dân sử dụng, trưng bày các sản phẩm làng nghề của địa phương. Tiếp tục hỗ trợ mở các lớp tập huấn nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động tại làng nghề nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn, giá thành hạ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.

Chú thích:
1, 2. Định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề tỉnh Hà Nam đến năm 2030. https://hanamtv.vn/dinh-huong-bao-ton-va-phat-trien-lang-nghe-tinh-ha-nam-den-nam-2030-33864.html, ngày 30/6/2023.
3. Tình hình kinh tế – xã hội tỉnh Nam Định năm 2024. https://www.namdinh.gso.gov.vn/thong-tin-kinh-te-xa-hoi/tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-tinh-nam-dinh-nam-2024-1151.html, ngày 03/01/2025.
4. Dự thảo Báo cáo Kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đến năm 2024. https://baoninhbinh.org.vn/du-thao-bao-cao-ket-qua-trien-khai-thuc-hien-chuong-trinh-468600.htm, ngày 20/01/2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022).  Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/06/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 07/7/2022 phê duyệt “Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030”.
3. Toàn văn Nghị quyết số 1674/NQ-UBTVQH15 sắp xếp các ĐVHC cấp xã của tỉnh Ninh Bình năm 2025. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-so-1674-nq-ubtvqh15-sap-xep-cac-dvhc-cap-xa-cua-tinh-ninh-binh-nam-2025-119250616203223135.htm, ngày 20/6/2025.
4. Toàn văn Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. https://baochinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-so-68-nq-tw-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-102250505122337909.htm, ngày 05/5/2025.