Văn hóa số trong thời đại chuyển đổi số: lý luận và thực tiễn 

ThS. Nông Minh Đức
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập hóa kết hợp với cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, chuyển đổi số và xây dựng văn hóa số đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, quá trình xây dựng văn hóa số phải được nghiên cứu và cân nhắc để vừa phát huy được các giá trị văn hóa truyền thống, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước, khu vực và quốc tế trong giai đoạn mới. Bài viết đề cập vấn đề văn hóa số, chuyển đổi số, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn, thách thức; từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng văn hóa số trong thời đại chuyển đổi số.

Từ khóa: Văn hóa số; chuyển đổi số; lý luận và thực tiễn; giai đoạn phát triển mới.

1. Đặt vấn đề

Văn hóa số là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia. Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng nền văn hóa số phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội – chính trị trong nước, khu vực và trên thế giới nhưng vẫn gìn giữ và phát các giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa số thực tế là sự tương tác và ứng xử của con người đối với công nghệ, giữa con người với con người thông qua môi trường số nhằm giải quyết các vấn đề trong công việc và cuộc sống hằng ngày. Văn hóa số được sinh ra bởi môi trường số, bởi sự phát triển của khoa học – công nghệ, phương tiện thông tin truyền thông, giúp xóa bỏ khoảng cách không gian, thời gian; giúp con người thuận tiện hơn trong giao tiếp, học tập và giải quyết công việc… 

Thời gian qua, các yếu tố về chuẩn mực đạo đức số, thẩm mỹ số, nhân sinh quan số đã được hình thành trong nền văn hóa số. Đây được coi là nền tảng tinh thần, là động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội trong thời đại chuyển đổi số.

2. Một số vấn đề lý luận về văn hóa số

2.1. Khái niệm

Văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất do con người sáng tạo ra, có lịch sử ra đời và phát triển cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người. Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm bắt nguồn từ tiếng Latin “cultus” sau chuyển thành “kultura” với nghĩa cày cấy, vun trồng, về sau chuyển thành “culture” nghĩa là vun trồng, chăm sóc, bồi dưỡng tinh thần, trí tuệ cho con người. Ở thế kỷ XIX, nhà nhân loại học người Anh, E.B Taylor cho rằng: “văn hóa là toàn bộ phúc thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác nhau mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”1.

Theo C.Mác “văn hóa là là sự phát triển các lực lượng bản chất người của con người nhằm vươn tới sự hoàn thiện con người, xã hội theo hướng nhân bản hóa”2. Với C.Mác, văn hóa được xác định bởi hai yếu tố: qua quá trình lao động con người ghi lại dấu ấn phát triển của mình và thông qua lao động con người sáng tạo nên các giá trị vật chất, tinh thần tiến bộ. Văn hóa được hiểu là “tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”3. Khái niệm này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo lâu dài và bền bỉ của cộng đồng người thông qua quá trình lao động hình thành nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, đồng thời mang những nét đặc trưng, đặc thù tạo nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng người.

Bàn về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định rằng: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”4. Định nghĩa này giúp chúng ta hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn và cụ thể hơn về văn hóa. Bởi, văn hóa được sinh ra từ những hoạt động quen thuộc, gắn với cuộc sống hằng ngày (văn hóa từ những thói quen lặp đi lặp lại được chắt lọc qua thời gian mà có, đó là phong tục tập quán, đó là giá trị đạo đức, thẩm mỹ…) truyền từ qua đời khác tạo nên bản sắc riêng góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng của nền văn hóa nhân loại. Tại Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, trong đó xác định: “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.

Trong bối cảnh hiện nay, văn hóa số là thuật ngữ mới, được xuất hiện khi khoa học công nghệ đạt đến đỉnh cao, đưa con người hoà nhập vào môi trường mạng: từ giải quyết công việc, các vấn đề sinh hoạt hàng ngày, các mối quan hệ…. Văn hóa số hiểu theo nghĩa đơn giản nhất: “văn hóa số là một khái niệm bao quát mô tả ý tưởng rằng công nghệ và Internet định hình cách con người tương tác, hành xử, suy nghĩ và giao tiếp trong một bối cảnh xã hội”5

Văn hóa số theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) là văn hóa sử dụng công nghệ số và thấu hiệu sâu sắc việc dựa trên dữ liệu để ra quyết định, hướng khách hàng làm trung tâm song song với việc thúc đẩy hợp tác và đổi mới bên trong tổ chức và trên thực tế, văn hóa số chính là tập hợp các giá trị, niềm tin, hành vi cá nhân và tổ chức trong bối cảnh xã hội số, môi trường số6

Thuật ngữ “Chuyển đổi số” cũng là thuật ngữ mới và đến nay đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới, nhất là, từ khi dịch bệnh Covid-19 diễn ra đến nay. Chuyển đổi số là việc sử dụng công nghệ mới, nhanh và thường xuyên thay đổi để giải quyết vấn đề, đó là việc chuyển đổi các quy trình không phải kỹ thuật số hoặc thủ công sang quy trình kỹ thuật số, ví dụ điện toán đám mây.

Chuyển đổi số cũng là việc tích hợp công nghệ số vào mọi lĩnh vực của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, chính phủ, bộ máy tổ chức nhà nước… về cơ bản thay đổi cách vận hành và cung cấp giá trị cho người sử dụng. Điều này đòi hỏi tất cả các đối tượng trong xã hội phải thay đổi về văn hóa ứng xử và hành vi trong môi trường mới – môi trường số. Trên thực tế, chuyển đổi số không thực sự liên quan đến công nghệ mà liên quan đến sự nhanh nhẹn của cấu trúc – văn hóa đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi số của bất kỳ cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân … 

2.2. Đặc trưng của văn hóa số trong thời đại chuyển đổi số

Văn hóa số trong bối cảnh chuyển đổi số thường có một số đặc trưng, như:

(1) Văn hóa số luôn luôn đổi mới và khuyến khích, ủng hộ những suy nghĩ, tư duy đột phá, chấp nhận rủi ro và mạo hiểm để có được những trải nghiệm mang tính mới, khác lạ.

(2) Văn hóa số mà trong đó những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước cho đến các thủ trưởng đơn vị hay cá nhân luôn dựa vào dữ liệu mình có để đưa ra quyết định. Nguồn thông tin sẽ được thu thập thông qua môi trường số, cá nhân, thủ trưởng tiếp nhận, xử lý và từ đó đưa ra những quyết định, quyết sách.

Trong giai đoạn chuyển đổi số sẽ lấy người dùng làm trung tâm. Tất cả công nghệ, phương tiện truyền tin, nguồn thông tin đều phục vụ cho người dùng tin. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số muốn thành công cần có sự kiểm soát nguồn thông tin, nền tảng số và nội dung do cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sáng tạo tránh trường hợp nội dung không phù hợp với thuần phong mỹ tục, giá trị đạo đức, thẩm mỹ của người Việt Nam.

(3) Môi trường số tạo điều kiện để con người mở rộng các mối quan hệ, giao lưu hợp tác trên khắp mọi miền đất nước và khắp nơi trên thế giới, môi trường đa văn hóa cũng được hình thành trên môi trường số và văn hóa đa quốc gia, đa dân tộc cũng hình thành và phát triển. Để có thể phát huy được những lợi thế mở này, bản thân mỗi người dùng cần hoàn thiện bản thân về cả trình độ chuyên môn và kỹ năng mềm, biến mình cũng trở thành một hằng số trong môi trường số hoà mình vào xu thế chung của thế giới và nhân loại. Đây chính là đặc trưng về hợp tác mở và văn hóa mở trong quá trình chuyển đổi số hiện nay.

(4) Văn hóa số coi trọng sự tư duy số, đó là quá trình tư duy logic, tư duy hiện đại và biết cách tiên lượng trước cách thức, đường hướng phát triển, từ đó phát hiện ra những khó khăn, hạn chế để kịp thời khắc phục, những thuận lợi để tiếp tục phát huy.

3. Xây dựng văn hóa số trong thời đại chuyển đổi số

Trong công cuộc chuyển đổi số, để đạt được sự thành công thì phải xây dựng nền văn hóa số. Bởi văn hóa số là những hành vi, ứng xử giữa con người với công nghệ và giữa con người với con người trên môi trường số. Những hành vi đó được lặp đi lặp lại thông qua quá trình chọn lọc những giá trị tốt đẹp, tiên tiến, phù hợp với thời đại để phát huy và loại bỏ những tạp chất, lạc hậu, không phù hợp. Việc xây dựng văn hóa số trong thời đại chuyển đổi số hiện nay có rất nhiều thuận lợi và thời cơ cần phải tận dụng, như:

Thứ nhất, nhận thực người dân, doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan đơn vị về công nghệ – kỹ thuật hiện đại, cách thức khai thác và sử dụng nguồn thông tin số, trình độ tin học và sử dụng phương tiện đa truyền thông được nâng cao. Từ đó, nhanh chóng hòa nhập vào công tác chuyển đổi số trên phạm vi rộng, bảo đảm tính thống nhất và toàn diện. Đây chính là yếu tố quan trọng để từng bước hình thành và phát triển văn hóa số trên tinh thần tự nguyện tham gia, tự nguyện hòa nhập và tự nguyện hoàn thiện bản thân. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cũng đã thay đổi về nhận thức, đã và đang đẩy mạnh phát triển văn hóa số trên nền tảng các giá trị của văn hóa công vụ.

Thứ hai, khoa học công nghệ đã và đang đáp ứng nhu cầu về chuyển đổi số, tham gia vào công cuộc chuyển đổi số của đất nước cũng như khu vực và thế giới, từ đó, có thể phá vỡ các rào cản của khoa học – công nghệ lạc hậu, chậm cải tiến… và hình thành văn hóa số theo hướng tích cực. Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các giá trị văn hóa, thẩm mỹ, đạo đức đã được định hình và ngày càng phát triển. Yếu tố văn hóa truyền thống, văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc sẽ là nền tảng, động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển văn hóa số.

Thứ ba, hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã bước đầu thành công trong việc xây dựng văn hóa số, do đó, Việt Nam có thể nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm từ đó áp dụng linh hoạt vào quá trình xây dựng văn hóa, rút ngắn thời gian và mang lại hiểu quả cao hơn.

Trong quá trình xây dựng văn hóa số, bên cạnh những thuận lợi cũng có rất nhiều khó khăn, rào cản, như:

Một là, văn hóa truyền thống là yếu tố tiền đề, nền tảng cho xây dựng văn hóa số nhưng do được hình thành từ lâu nên dễ trở thành lối mòn truyền thống, tạo độ ì cao khiến cho việc thay đổi ở một số đối tượng dường như trở nên khó khăn. Những thói quen đó ảnh hưởng đến quá trình xử lý công việc, hợp tác và khả năng thích ứng với môi trường đa văn hóa.

Hai là, trình độ ngoại ngữ và công nghệ của người dùng còn nhiều hạn chế, đặc biệt khu vực nông thôn, vùng núi, đồng bào dân tộc thiểu số, do đó, việc chuyển đổi số và hình thành văn hóa số gặp nhiều khó khăn.

Ba là, hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ chuyển đổi số còn hạn chế, điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng văn hóa số của cả nước.

4. Giải pháp xây dựng văn hóa số trong thời đại chuyển đổi số

Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và xây dựng văn hóa số, cần thiết phải thực hiện một số biện pháp như sau:

Thứ nhất, nâng cao trình độ ngoại ngữ, năng lực công nghệ thông tin cho người dân đặc biệt tại các vùng nông thôn, vùng núi, đồng bào dân tộc thiểu số nhằm đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi số và xây dựng văn hóa số đồng bộ, rộng khắp.

Thứ hai, bên cạnh việc phát huy các yếu tố văn hóa truyền thống cũng cần thực hiện nhiều biện pháp, phương thức tuyên truyền, phổ biến, khích lệ người dùng thay đổi tư duy và tích cực đổi mới để theo kịp xu hướng phát triển của thế giới, góp phần hình thành văn hóa số tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị và ngay chính phương thức sống hằng ngày của cá nhân mỗi người.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về chuyển đổi số và phát huy tối đa vai trò văn hóa công sở, văn hóa công vụ trong từng đơn vị, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, chú trọng việc giải quyết cơ chế, chính sách tiền lương, đãi ngộ đối với những đối tượng trên nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và xây dựng văn hóa số.

Thứ tư, đầu tư cơ sở  hạ tầng đồng bộ giữa các vùng miền, cùng với đó là triển khai mở các lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng cho người dân để họ có đủ khả năng tham gia vào quá trình xây dựng văn hóa số tại địa phương.

Thứ năm, kiểm soát không gian mạng, nền tảng số hiệu quả, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hoạt động tiêu cực, các video, phát ngôn trái với các giá trị văn hóa, đạo đức và thẩm mỹ của người Việt. Đồng thời, khuyến khích động viên người dùng, đặc biệt là các nghệ sĩ, người nổi tiếng tích cực sử dụng “nguyên liệu” văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc ra thế giới.

Chuyển đổi số và xây dựng văn hóa số là xu hướng tất yếu của tất cả các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới trong đó có Việt Nam. Để tận dụng được những thành tựu của các quốc gia trên thế giới, phát huy tối đa tiềm lực về kinh tế – xã hội và đặc biệt là nền văn hóa truyền thống, Việt Nam cần mạnh dạn hơn nữa trong việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật về chuyển đổi số nói chung và xây dựng văn hóa số nói riêng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, khuyến khích người dân (đặc biệt nghệ sĩ, người nổi tiếng, người có sức ảnh hưởng rộng) sử dụng văn hóa truyền thống vào quá trình xây dựng văn hóa số, đưa nền văn hóa số đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam ra thế giới. 

Chú thích:

1. Nguyễn Thị Thường (2008). Văn hóa học. H. NXB Đại học Sư phạm, tr. 20.

2. C. Mác (1960). Tư bản (quyển I, Tập 2). H. NXB Sự thật, tr. 35.

3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 78, 126.

5. Sherin Haroun El. Rashied (2022). Digital. https://www.researchgate.net/publication/363329216_Digital_Culture

6. Văn hóa số là gì? Tầm quan trọng của xây dựng văn hóa số.  https://www.pace.edu.vn/tin-kho-tri-thuc/van-hoa-so