Thực hiện bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay

ThS. Nguyễn Thị Linh
Học viện Cảnh sát nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực để thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường bình đẳng giới trên các lĩnh vực, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù vậy, những hạn chế về điều kiện kinh tế – xã hội, các tập tục truyền thống và định kiến về giới vẫn là những nguyên nhân gây ra rào cản lớn, cản trở phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia bình đẳng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, việc nghiên cứu các giải pháp toàn diện để thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm xây dựng một xã hội công bằng hơn, nơi mọi phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển toàn diện, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.

Từ khóa: Bình đẳng giới; dân tộc thiểu số; công bằng xã hội; định kiến giới.

1. Đặt vấn đề

Bình đẳng giới là một trong những nguyên tắc cơ bản của quyền con người và là yếu tố then chốt trong quá trình phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc thúc đẩy bình đẳng giới, song ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vấn đề này vẫn còn tồn tại nhiều rào cản mang tính hệ thống và văn hóa. Những định kiến giới, tập tục lạc hậu cùng với điều kiện kinh tế – xã hội còn khó khăn đã khiến phụ nữ dân tộc thiểu số gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm và tham gia vào các hoạt động chính trị – xã hội.

Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, việc thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là yêu cầu cấp thiết về mặt nhân quyền mà còn là động lực quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền. Tuy nhiên, để đạt được điều này, cần có sự nhìn nhận toàn diện về thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp phù hợp với đặc thù văn hóa – xã hội của từng cộng đồng dân tộc.

2. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay 

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó, 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14,6% tổng dân số cả nước, phân bố rộng khắp trên nhiều vùng địa lý, chủ yếu chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía Tây duyên hải miền Trung, chiếm 3⁄4 diện tích cả nước. Quy mô dân số giữa các dân tộc có sự chênh lệch lớn, từ những dân tộc có dân số hàng triệu người, như: dân tộc Tày, Thái, Mường đến những dân tộc có dân số rất nhỏ, chỉ vài trăm người, như: dân tộc Ơ Đu, Brâu1. Tính đến ngày 01/10/2022, tổng dân số dân tộc thiểu số cả nước khoảng 14,3%, tương đương với gần 14 triệu người2

Trong những năm qua, công tác bình đẳng giới nói chung, đặc biệt là bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước. Sự quan tâm này không chỉ thể hiện ở định hướng chính trị mà còn được cụ thể hóa thông qua hệ thống các văn bản pháp luật và chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Những văn bản này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quyền bình đẳng, nâng cao vị thế của phụ nữ, và tạo điều kiện để cả nam và nữ đều có cơ hội tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách công bằng.

Đặc biệt, hệ thống chính sách về bình đẳng giới đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Việt Nam được xây dựng trên nền tảng pháp lý vững chắc, nổi bật là Luật Bình đẳng giới năm 2006. Đây là văn bản pháp lý quan trọng đặt ra nguyên tắc cơ bản và định hướng hành động trong công tác bình đẳng giới. Trong đó, khoản 5 Điều quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc “hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn”. Quy định này đã mở đường cho việc xây dựng các chính sách chuyên biệt, phù hợp với đặc thù của từng dân tộc nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách giới và phát huy vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số. 

Để cụ thể hóa những mục tiêu này, Chính phủ cũng đã ban hành và triển khai nhiều chương trình hành động lồng ghép. Tiêu biểu nhất là Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. Chương trình này bao gồm các dự án thành phần nhằm hỗ trợ sinh kế, phát triển giáo dục, y tế và văn hóa với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái. Đến nay, chương trình này đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo và cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo tiền đề để phụ nữ dân tộc thiểu số có thêm cơ hội tiếp cận tri thức và các dịch vụ xã hội3.

Bên cạnh đó, cơ chế thực hiện chính sách cũng được vận hành thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan. Nhờ đó, các chính sách được đưa vào thực tiễn thông qua các hoạt động tập huấn, nâng cao năng lực và hỗ trợ vay vốn, từ đó, giúp phụ nữ dân tộc thiểu số chủ động hơn trong phát triển kinh tế gia đình và tham gia vào các hoạt động xã hội, cụ thể:

Thứ nhất, sự tham gia của phụ nữ vào chính trị và lãnh đạo, quản lý được tăng cường rõ rệt.

Việc nâng cao vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong lĩnh vực chính trị, lãnh đạo và quản lý là một trong những thành tựu nổi bật nhất. Các chính sách đã tạo điều kiện để phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia tích cực hơn vào bộ máy nhà nước và các tổ chức xã hội. Điều này được thể hiện rõ nét tại Quốc hội (khóa XV) (2021 – 2026): tổng số đại biểu là 499 người, trong đó có 89 đại biểu là người dân tộc thiểu số, chiếm 17,84%, với 44/89 người là nữ, chiếm 49,43% tổng số đại biểu dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nói chung đạt 30,26% đây là mức cao thứ hai trong lịch sử Việt Nam. Tỷ lệ nữ đại biểu dân tộc thiểu số đạt 17,84%, cao hơn nhiều so với các khóa trước, thể hiện sự công nhận về năng lực và tiếng nói của họ trong việc hoạch định chính sách quốc gia4.

Ở địa phương, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã đảm nhận các vị trí chủ chốt, như: bí thư, chủ tịch xã, chủ tịch huyện. Cán bộ nữ tham gia Ban Thường vụ ở các tỉnh, thành phố, cấp tỉnh, thấp nhất là 11,3%, cao nhất là 35%; cấp huyện 15,3% (cao hơn 3,4% so với nhiệm kỳ trước). Đồng thời, Việt Nam nằm trong nhóm 1 các nước có tỷ lệ nữ tham gia chính trị cao đứng đầu thế giới5. Sự hiện diện của phụ nữ cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và thực thi các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa, bảo đảm các chính sách thực sự phù hợp với điều kiện và nhu cầu của cộng đồng địa phương. Việc phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia vào công tác quản lý cũng đã góp phần xóa bỏ những định kiến lâu đời, tạo ra hình mẫu tích cực, khuyến khích các thế hệ phụ nữ tiếp theo nỗ lực vươn lên. 

Thứ hai, mức độ tiếp cận giáo dục và y tế cho phụ nữ và trẻ em gái không ngừng được cải thiện.

Trong lĩnh vực giáo dục và y tế đã giúp phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển toàn diện hơn, đặc biệt là trẻ em gái được đến trường tăng đáng kể. Điều này, góp phần giảm thiểu tình trạng bỏ học sớm, giúp các em có nền tảng kiến thức vững chắc để phát triển trong tương lai. Các dự án can thiệp ở vùng sâu, vùng xa cũng đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc giảm tỷ lệ tảo hôn, giúp bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của trẻ em gái. Bên cạnh đó, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố đã giúp phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Các chương trình tiêm chủng, khám sàng lọc và chăm sóc sức khỏe sinh sản được triển khai rộng khắp góp phần giảm tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh, nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khỏe của cộng đồng. 

Thứ ba, vai trò, vị thế của phụ nữ được nâng cao.

Phụ nữ dân tộc thiểu số ngày càng khẳng định vai trò và vị thế của mình, trước đây, họ thường chỉ tham gia vào các công việc nội trợ và ít có tiếng nói trong các quyết định về kinh tế gia đình. Các chính sách tín dụng ưu đãi kết hợp với các lớp tập huấn về kỹ năng nghề nghiệp, đã giúp phụ nữ đã có cơ hội tiếp cận nguồn vốn và kiến thức cần thiết để làm chủ các mô hình kinh tế, như: trồng trọt, chăn nuôi, dệt thổ cẩm truyền thống. Qua đó, không chỉ giúp phụ nữ dân tộc thiểu số tự chủ về tài chính, nâng cao thu nhập của gia đình mà còn góp phần vào sự phát triển chung của cộng đồng. Sự tham gia tích cực vào kinh tế cũng giúp họ có tiếng nói bình đẳng hơn trong các quyết định chi tiêu và quản lý tài chính trong gia đình. 

Thứ tư, nhận thức về các hủ tục lạc hậu ngày càng được giảm thiểu.

Những năm gầy đây, các chiến dịch truyền thông về bình đẳng giới đã từng bước thay đổi nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số. Thay vì coi trọng nam giới, nhiều gia đình đã nhận ra giá trị và vai trò của phụ nữ, đặc biệt là trong việc phát triển kinh tế và nuôi dạy con cái. Sự chung tay của chính quyền địa phương, các già làng, trưởng bản và người có uy tín cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc lan tỏa thông điệp về bình đẳng giới. Nhờ đó, một số hủ tục lạc hậu đã được giảm thiểu đáng kể, đặc biệt là tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Cộng đồng đã dần chấp nhận và ủng hộ việc phụ nữ đi học và tham gia vào các hoạt động xã hội và có tiếng nói trong gia đình. Sự thay đổi này là một quá trình lâu dài và bền vững, thể hiện nỗ lực của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng của người dân trong việc xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ hơn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng tồn tại những khó khăn nhất định. Cụ thể, phụ nữ dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng như trong giáo dục, đặc biệt là học tập ở những bậc học cao, như: học đại học, trên đại học hoặc được tham gia các khóa đào tạo chuyên môn, tay nghề, kỹ thuật… Chỉ có 5,9% lao động nữ dân tộc thiểu số có việc làm đã qua đào tạo, trong đó số lao động có trình độ sơ cấp nghề là 0,2%, trung cấp: 2,5%, cao đẳng: 1,4% và đại học trở lên: 1,7%. 

Một số dân tộc như dân tộc Hmông chỉ có 0,9% lao động nữ có việc làm đã qua đào tạo, 0% sơ cấp nghề, 0,6% trung cấp, 0,2% cao đẳng và 0,1% từ đại học trở lên, trong khi tỷ lệ lao động nam được đào tạo cao hơn rất nhiều, lần lượt là: 3,4%, 0,2%, 2%, 0,5% và 0,7%6. Trong lĩnh vực lao động, việc làm, tỷ lệ nữ có việc làm thấp hơn so với nam giới, đơn cử như dân tộc Ngái có 76,4% lao động nam có việc làm, trong khi nữ chỉ có 23,6%7. Mặt khác, phụ nữ dân tộc thiểu số thường chỉ làm các công việc lao động giản đơn chiếm 61,64%, lao động nông, lâm nghiệp, chiếm 16,78%, lao động thủ công, chiếm 3,52%, bán hàng và dịch vụ, chiếm 11,25%, tỷ lệ phụ nữ làm những công việc có trình độ kiến thức và kỹ năng cao rất thấp8.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bình đẳng giới.

Đây là giải pháp nền tảng, có ý nghĩa quyết định nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác bình đẳng giới. Theo đó, cần rà soát, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là các chính sách đặc thù đối với phụ nữ và trẻ em gái vùng dân tộc thiểu số để bảo đảm họ được thụ hưởng đầy đủ các quyền lợi chính đáng. Đặc biệt, cần xây dựng những chính sách ưu tiên, ưu đãi, tạo thêm cơ hội để phụ nữ dân tộc thiểu số có thể tiếp cận học tập ở nhiều loại hình, phương thức đào tạo nhằm nâng cao trình độ, năng lực, bao gồm cả chuyên môn, ngoại ngữ, tin học. 

Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình về bình đẳng giới và phát triển dân tộc như Đề án “Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số” giai đoạn 2018 – 2025 và Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quyền chính trị của phụ nữ dân tộc thiểu số và kiên quyết xử lý những hành vi sai phạm, tiêu cực trong việc thực thi chính sách.

Hai là, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về bình đẳng giới.

Công tác truyền thông, giáo dục là yêu cầu quan trọng để thay đổi nhận thức và hành vi của toàn xã hội, đặc biệt là trong cộng đồng dân tộc thiểu số. Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, cần tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, vận động bình đẳng giới, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, kết hợp các phương tiện truyền thông hiện đại (báo chí, truyền hình, mạng xã hội) với các hình thức truyền thống (văn hóa dân gian, sân khấu, lễ hội) phù hợp với đặc thù văn hóa của từng dân tộc. Nội dung truyền thông, cần tập trung vào việc xóa bỏ định kiến giới, hủ tục lạc hậu và ca ngợi các tấm gương phụ nữ dân tộc thiểu số tiêu biểu. 

Tăng cường lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào nội dung giảng dạy ở các cấp học, trong các buổi sinh hoạt và giao lưu văn hóa cộng đồng. Đặc biệt, cần thực hiện có hiệu quả Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những đề cấp bách của phụ nữ và trẻ em” nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi định kiến, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ, chăm sóc phụ nữ và trẻ em, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và Tiểu dự án 9.2 “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”9.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đây là nhiệm vụ chiến lược nhằm tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện bình đẳng giới. Theo đó, cần đầu tư vào giáo dục, đào tạo nghề nghiệp cho phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số, khuyến khích các em đến trường và tiếp tục học lên cao hơn. Các chính sách học bổng, hỗ trợ học phí cần được thực hiện một cách hiệu quả, tạo động lực để phụ nữ dân tộc thiểu số vươn lên, lấy giáo dục làm nền tảng, khơi dậy khát vọng và ý thức phấn đấu của phụ nữ dân tộc thiểu số. Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về bình đẳng giới, để phụ nữ xác định được vai trò, vị trí và giá trị bản thân, mạnh dạn và tự tin tham gia các hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Tổ cần tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn kiến thức và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, ban giám hiệu các trường nội trú, bán trú và người có uy tín. Đồng thời, cần biên soạn tài liệu bồi dưỡng phù hợp với từng nhóm đối tượng, điều kiện, trình độ và văn hóa dân tộc để bảo đảm thông điệp được truyền tải một cách hiệu quả nhất.

Bốn là, bảo đảm các dịch vụ y tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, trẻ em và giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan.

Để bảo đảm bình đẳng giới một cách toàn diện, cần đặc biệt chú trọng đến việc cải thiện các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là y tế và giáo dục. Trước mắt, cần tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cấp các cơ sở y tế ở vùng sâu, vùng xa, bảo đảm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em được cung cấp đầy đủ, kịp thời. Các chương trình tư vấn sức khỏe, dinh dưỡng, tiêm chủng cần được đẩy mạnh, phù hợp với đặc điểm địa lý và văn hóa của từng vùng. Các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện giúp phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn lực để tự chủ làm kinh tế; gia tăng cơ hội có việc làm với thu nhập ổn định. Xây dựng các biện pháp can thiệp mạnh mẽ để xóa bỏ các hủ tục lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân cận huyết, buôn bán phụ nữ và trẻ em. Việc thành lập các trung tâm tư vấn, hỗ trợ pháp lý và tâm lý cho phụ nữ dân tộc thiểu số cũng được coi là một trong những giải pháp cần thiết, giúp họ vượt qua những khó khăn, thách thức trong cuộc sống. Các chương trình hỗ trợ sinh kế, tạo việc làm, giảm nghèo đa chiều cũng cần được lồng ghép yếu tố giới, bảo đảm phụ nữ dân tộc thiểu số được tiếp cận và thụ hưởng một cách công bằng hơn.

Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và cộng đồng.

Để thực hiện hiệu quả giải pháp này, các tổ chức đoàn thể, như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò cầu nối quan trọng giữa chính quyền và người dân, trực tiếp triển khai các hoạt động bình đẳng giới tại địa phương. Tăng cường sự phối hợp, đoàn kết, thống nhất giữa các tổ chức trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới theo đúng chức năng, nhiệm vụ, vai trò của từng tổ chức. Đặc biệt, cần phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ thôn, bản; nhất là đội ngũ già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số. 

Các cấp ủy, chính quyền địa phương cần tăng cường định hướng, chỉ đạo, động viên, khích lệ đội ngũ cán bộ này nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực phát huy vai trò của mình trong việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục người dân thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới.

4. Kết luận

Công tác bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đây là kết quả của sự nỗ lực đồng bộ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tuy nhiên, công tác bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta vẫn còn tồn tại một số rào cản lớn từ các hủ tục, tập quán lạc hậu, do đó, cần một quyết tâm chính trị lớn và một lộ trình dài để thay đổi. Để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và giải quyết triệt để các vấn đề còn tồn tại, việc triển khai đồng bộ các giải pháp như đã đề xuất trên là việc làm cần thiết để từng bước giúp thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó, góp phần chung tay xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp, xã hội ngày càng dân chủ, công bằng, văn minh hơn.

Chú thích:

1. Danh sách các dân tộc Việt Nam. https://chinhphu.vn/dan-toc/danh-sach-cac-dan-toc-viet-nam-10000494

2. Việt Nam đề cao quyền bình đẳng của dân tộc thiểu số trên tinh thần “anh em như thể chân tay”. https://tgpl.moj.gov.vn/Pages/hoi-nhap-phat-trien.aspx

3. Thủ tướng chủ trì Hội nghị tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. https://baochinhphu.vn/thu-tuong-chu-tri-hoi-nghi-tong-ket-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-102250813095443062.htm

4. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về bình đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. http://pbgdpl.dongnai.gov.vn/737/18664/Nang-cao-hieu-qua-cong-tac-tuyen-truyen-pho-bien-phap-luat-ve-binh-dang-gioi-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui.html

5. Việt Nam có tỷ lệ nữ tham gia chính trị thuộc nhóm đứng đầu thế giới. https://tuoitre.vn/viet-nam-co-ti-le-nu-tham-gia-chinh-tri-thuoc-nhom-dung-dau-the-gioi-20230402142239841.htm

6, 7. Tổng Cục Thống kê (2019). Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019. H. NXB Thống kê, tr. 166, 169.

8. Thực hiện bình đẳng giới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vì mục tiêu phát triển bền vững ở nước ta hiện nay. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/827423/thuc-hien-binh-dang-gioi-o-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-vi-muc-tieu-phat-trien-ben-vung-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx

9. Kế hoạch Thực hiện Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” và Chương trình Mặt trận Tổ quốc phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn I: 2021 -2025 năm 2022. https://hoilhpn.org.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/ke-hoach-thuc-hien-du-an-8-034-thuc-hien-binh-%C4%91ang-gioi-va-giai-quyet-nhung-van-%C4%91e-cap-thiet-%C4%91oi-voi-phu-nu-va-tre-em-034-va-chuong-trinh-mtqg-phat-trien-kt-xh-vung-%C4%91ong-bao-dtts-va-mien-nui-giai-%C4%91oan-i-2021-2025-nam-2022-46735-7.html. 

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Bí thư (2018). Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/01/2018 về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2007). Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3. Thúc đẩy bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số. https://www.qdnd.vn/xa-hoi/dan-toc-ton-giao/chinh-sach-phat-trien/thuc-day-binh-dang-gioi-o-vung-dan-toc-thieu-so-678127

4. Thúc đẩy bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số. https://tapchitaichinh.vn/thuc-day-binh-dang-gioi-trong-dong-bao-dan-toc-thieu-so.html

5. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới cho phụ nữ dân tộc thiểu số. https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/03/17/mot-so-giai-phap-thuc-day-binh-dang-gioi-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so/

6. Vấn đề giới và bình đẳng giới trong phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/04/05/van-de-gioi-va-binh-dang-gioi-trong-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/