TS. Đặng Thái Bình
Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
ThS. Nguyễn Văn Tiến
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong
TS. Trần Thị Quỳnh Nga
Bộ Ngoại giao
(Quanlynhanuoc.vn) – Với nền tảng quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt, hai nước Việt Nam – Lào đã hoàn thành việc xác lập đường biên giới chung, xây dựng hệ thống mốc giới hiện đại và ký kết nhiều văn kiện pháp lý, đặc biệt là Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu (năm 2016). Thời gian qua, hai bên duy trì phối hợp chặt chẽ trong tuần tra song phương, bảo vệ mốc giới, kiểm soát xuất nhập cảnh, đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, mở và nâng cấp cửa khẩu, phát triển hạ tầng giao thông, thúc đẩy thương mại biên giới và tuyên truyền pháp luật cho cư dân. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công tác quản lý, bảo vệ biên giới vẫn còn nhiều thách thức, như: địa hình hiểm trở, hạ tầng chưa đồng bộ, đời sống nhân dân khó khăn, các loại tội phạm xuyên biên giới và an ninh phi truyền thống… rất cần có những giải pháp thiết thực để sự hợp tác ngày một hoàn thiện1.
Từ khóa: Quản lý, bảo vệ biên giới đất liền, hợp tác, tội phạm xuyên biên giới, Việt Nam, Lào.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam và Lào là hai quốc gia láng giềng gần gũi, có chung đường biên giới, sự tương đồng về văn hóa và truyền thống gắn bó lâu đời. Quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước được nhiều thế hệ lãnh đạo và Nhân dân hai bên dày công xây dựng, vun đắp và không ngừng phát triển ngày càng đi vào chiều sâu. Trong nhiều năm qua, hai nước đã phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, củng cố quốc phòng, an ninh; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội của cả Việt Nam và Lào.
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hợp tác Việt Nam – Lào trong quản lý, bảo vệ biên giới trên đất liền
Thứ nhất, địa hình và khí hậu khu vực biên giới.
Biên giới Việt Nam – Lào chủ yếu là địa hình núi rừng trùng điệp, hiểm trở và phức tạp, với độ cao trung bình từ 1.500 – 1.800m. Toàn tuyến có 18 ngọn núi vượt 2.000m, cao nhất là Phusailaileng 2.711m, thấp nhất là các đồi khoảng 300m ở Lao Bảo, Quảng Trị. Đường biên giới phần lớn đi theo các dãy núi phân thủy, qua đỉnh Pu Đen Đinh, dãy Trường Sơn, cắt ngang những khu rừng nguyên sinh rậm rạp và hệ thống sông suối dày đặc. Dọc biên giới, rừng già bao phủ chủ yếu, chỉ một số khu vực xuất hiện bình nguyên, thung lũng với thảm thực vật thưa và thấp. Đáng chú ý, ở nhiều đoạn, đường biên giới không bám theo sống núi liên tục mà cắt ngang địa hình, tạo nên đường ranh giới phức tạp và đa dạng.
Khu vực biên giới Việt Nam – Lào có trên 60 sông, suối; trong đó, 47 đoạn sông, suối tạo thành biên giới với tổng chiều dài khoảng 311km, số còn lại là các sông, suối mà đường biên giới cắt ngang qua. Do đặc thù về địa hình và khí hậu, hệ thống sông suối biên giới giữa hai nước thể hiện sự khác biệt rõ rệt giữa hai miền.
Vùng biên giới Việt Nam – Lào chịu ảnh hưởng của gió mùa với hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 – 11 và mùa khô từ tháng 12 – 3 năm sau. Khí hậu và thời tiết có sự khác biệt đáng kể giữa Bắc – Nam và Đông – Tây, nhìn chung khá khắc nghiệt: mùa nóng oi bức, mùa mưa mưa nhiều, nhiệt độ trung bình năm từ 20 – 25°C, độ ẩm tương đối cao. Nhiều khu vực thường xuyên bị mây mù bao phủ, thậm chí quanh năm. Ngoại trừ các thung lũng có sông suối, phần lớn biên giới được che phủ bởi rừng rậm; trong đó, rừng mưa nhiệt đới phát triển ở những nơi ẩm ướt, đất dày, còn rừng gió mùa phổ biến tại các vùng đất xốp hoặc khô cạn.
Thứ hai, dân cư biên giới.
Dân cư vùng biên giới Việt Nam – Lào chủ yếu là các dân tộc thiểu số, phân bố thưa thớt, đời sống kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn. Trước khi hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc, cư dân hai bên thường sinh sống xen kẽ, có quan hệ thân tộc gần gũi và thường xuyên qua lại. Mặc dù địa hình hiểm trở gây trở ngại lớn cho việc xác định và quản lý biên giới, song chính sự gắn bó cộng đồng ấy đã góp phần hình thành và duy trì những đường biên giới tự nhiên ổn định, được cả hai bên thừa nhận.
Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận nhỏ dân cư biên giới vẫn duy trì tập quán du canh, du cư, trình độ sản xuất lạc hậu, nhiều người chưa thông thạo tiếng phổ thông và chưa có nhận thức đầy đủ về biên giới, lãnh thổ. Thực trạng này gây không ít khó khăn cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới, mốc quốc giới, cũng như cho hoạt động tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân khu vực biên giới nâng cao hiểu biết và chấp hành pháp luật về biên giới, lãnh thổ.
Trong những năm gần đây, kinh tế, văn hóa – xã hội ở khu vực biên giới có nhiều thay đổi tích cực. Hệ thống giao thông liên thôn, xã, huyện được cải thiện, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc từng bước nâng cao; các thủ tục hành chính dần được đơn giản hóa. Đồng thời, nhận thức và trách nhiệm của quần chúng nhân dân đối với nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia cũng được tăng cường rõ rệt.
Thứ ba, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại khu vực biên giới.
Thời gian qua, tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội khu vực biên giới Việt Nam – Lào cơ bản được giữ vững. Hai nước tiếp tục triển khai chiến lược hợp tác toàn diện trên các tất cả lĩnh vực đã góp phần nâng tầm quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, Lào hiện đang đối mặt với suy thoái kinh tế – tài chính nghiêm trọng, lạm phát cao, khan hiếm các mặt hàng thiết yếu, như thực phẩm, nhiên liệu; đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn và phụ thuộc lớn vào đầu tư nước ngoài. Song song với đó, các thế lực thù địch vẫn đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ tại cả Việt Nam và Lào. Nhiều tổ chức phản động được hậu thuẫn từ bên ngoài đã đưa người về Bắc Lào hoạt động dưới nhiều hình thức tinh vi; tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội, di cư, hồi cư của người H’Mông, xuất nhập cảnh trái phép, buôn bán ma túy, hàng cấm và truyền đạo trái phép diễn biến phức tạp.
Thứ tư, cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho hợp tác quản lý và bảo vệ biên giới.
Việt Nam và Lào đã hoàn tất việc xác lập đường biên giới chung với hệ thống mốc giới khang trang, hiện đại, có giá trị pháp lý cao, được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý song phương. Đến nay, để hoàn thành công tác xác lập đường biên giới chung, đã ký kết tổng cộng 8 điều ước quốc tế, gồm 6 điều ước song phương và 2 điều ước ba bên. Các văn kiện này có giá trị trường tồn cùng đường biên giới chung giữa hai quốc gia. Đặc biệt, Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam – Lào, ký ngày 16/3/2016, đã thay thế các văn bản pháp lý trước đây, trở thành căn cứ pháp lý cao nhất cho công tác phối hợp quản lý biên giới và cửa khẩu hiện nay.
Thứ năm, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.
Trên nền tảng quan hệ truyền thống lâu đời, hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của hai Đảng và Nhà nước, Việt Nam và Lào có những nền tảng thuận lợi để tăng cường phối hợp trong công tác quản lý và bảo vệ biên giới. Bên cạnh việc tăng cường và làm sâu sắc hơn quan hệ chính trị với vai trò nòng cốt, định hướng tổng thể hợp tác, Việt Nam và Lào đã nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng, an ninh để giữ vững ổn định vùng biên giới cũng như giữ vững toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Hai bên cũng thống nhất mở rộng và nâng tầm hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư trở thành một trụ cột quan trọng, thông qua đẩy mạnh kết nối hai nền kinh tế, hạ tầng cứng và hạ tầng mềm, đồng thời huy động, sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước và các nguồn lực bên ngoài phù hợp. Song song, hai nước tiếp tục nâng cao chất lượng hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, y tế, du lịch, khoa học – công nghệ và môi trường, qua đó hỗ trợ thiết thực cho tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của cả hai quốc gia.
3. Thực trạng hợp tác Việt Nam – Lào trong quản lý, bảo vệ biên giới trên đất liền
Một là, về quản lý bảo vệ đường biên, mốc giới và xây dựng công trình biên giới.
Hai văn kiện pháp lý ký năm 2016, có hiệu lực từ ngày 05/9/2017 (Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới và Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam – Lào) hiện là căn cứ pháp lý cao nhất trong công tác phối hợp quản lý biên giới và quản lý cửa khẩu biên giới giữa hai nước hiện nay2.
Hợp tác giữa hai nước trong công tác quản lý, bảo vệ đường biên giới chung với nhiều hình thức linh hoạt: (1) Cơ quan Biên giới trung ương và các bộ, ngành liên quan hai nước duy trì liên lạc thường xuyên, tổ chức các cuộc họp để cập nhật tình hình và trao đổi các vấn đề có liên quan đến biên giới trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, vì lợi ích chung. (2) Việt Nam và Lào luôn thực hiện chế độ tuần tra song phương, đẩy mạnh công tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cấp, các ngành để giải quyết các vấn đề phát sinh; kịp thời phát hiện các mốc giới hư hỏng hoặc các địa điểm có nguy cơ sạt lở cao và báo cáo, kiến nghị biện pháp xử lý phù hợp; ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm đường biên, mốc giới, vi phạm quy chế biên giới (xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, buôn lậu, gian lận thương mại…). (3) Các cặp tỉnh có chung đường biên giới và các lực lượng trực tiếp quản lý, bảo vệ biên giới hai bên thường xuyên trao đổi tình hình và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến biên giới phù hợp với Hiệp định về Quy chế về biên giới và Biên bản các cuộc họp thường niên của hai Đoàn đại biểu biên giới; tổ chức hội đàm trực tuyến, gặp gỡ trực tiếp, triển khai mô hình giao lưu “bản – bản”, đồn biên phòng kết nghĩa3.
Trước diễn biến của tình hình an ninh trật tự trên biên giới thời gian qua, nhất là các hoạt động vi phạm pháp luật, tội phạm ma túy, mua bán người, tổ chức đưa đón người xuất, nhập cảnh trái phép…, lực lượng Bộ đội biên phòng tại các tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng và lực lượng bảo vệ biên giới phía Lào tăng cường các biện pháp nghiệp vụ, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả với các tổ chức, đường dây tội phạm qua biên giới, xuyên quốc gia theo đúng quy định pháp luật, điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, giữ ổn định an ninh, chính trị và trật tự xã hội khu vực biên giới giữa Việt Nam và Lào.
Triển khai các thỏa thuận được ghi nhận tại Biên bản các cuộc họp thường niên giữa hai Đoàn đại biểu biên giới Việt Nam – Lào4. Trong những năm qua, hai bên đã phối hợp tổ chức các Đoàn chuyên viên biên giới khảo sát thực địa để kiểm tra, đánh giá tình hình các mốc biên giới bị hư hỏng sạt lở, vị trí dự kiến xây dựng các công trình dọc hoặc xuyên biên giới cũng như xử lý các vi phạm Hiệp định về quy chế quản lý biên giới năm 2016; từ đó, tham mưu các biện pháp cần thiết để bảo vệ hệ thống mốc giới, bảo đảm sự ổn định, bền vững của đường biên giới.
Hai là, về hợp tác quản lý hoạt động qua lại biên giới và bảo đảm an ninh, an toàn, trật tự xã hội khu vực biên giới
Lực lượng biên phòng Việt Nam và Lào đã thực hiện nhiệm vụ kiểm soát xuất nhập cảnh ở cửa khẩu theo các quy định của Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới năm 2016. Trong những năm qua, Bộ đội Biên phòng Việt Nam đã tích cực cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trang bị các loại phương tiện kỹ thuật hiện đại rút ngắn thời gian làm thủ tục biên phòng tại cửa khẩu đối với một phương tiện xuất nhập cảnh từ 45 phút xuống còn 10 phút; đối với một hành khách từ 5 phút xuống còn 1 phút. Đến nay, ở một số cửa khẩu đã triển khai thực hiện cổng kiểm soát tự động giảm thời gian làm thủ tục xuất nhập cảnh cho một hành khách xuống còn 5 – 7 giây, tạo thông thoáng, thuận lợi cho người, phương tiện xuất nhập cảnh. Đồng thời, hai bên tăng cường công tác bảo đảm giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, trật tự xã hội khu vực cửa khẩu, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, du lịch tại vùng biên giới; phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm soát xuất nhập cảnh của Lào và các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cửa khẩu duy trì thực hiện nghiêm túc Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam – Lào.
Lực lượng an ninh hai bên thường xuyên trao đổi thông tin về tình hình thế giới, khu vực, hoạt động của các thế lực thù địch, của các nhóm phản động lưu vong lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam và Lào; tổ chức ký kết Quy chế phối hợp giữa Lực lượng chức năng của Bộ Công an hai nước, từ đó làm căn cứ để lực lượng an ninh phối hợp chặt chẽ, trao đổi chuyên sâu thông tin, tình hình, kinh nghiệm công tác; triển khai có hiệu quả Bản ghi nhớ giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ Công an Lào về hợp tác phòng, chống ma túy ký ngày 09/8/2021 tại Thủ đô Viêng Chăn. Đã phối hợp tổ chức Hội đàm song phương cấp Thứ trưởng và Hội nghị sơ kết định kỳ; phối hợp triển khai cao điểm về tuyên truyền, tấn công, trấn áp tội phạm ma túy trên tuyến giới hai nước; phối hợp trao đổi văn bản pháp luật và các quy định hiện hành trong lĩnh vực phòng, chống ma túy để Bộ Công an Lào nghiên cứu, tham khảo trong quá trình xây dựng các văn bản triển khai Chương trình quốc gia phòng, chống ma túy của Lào giai đoạn 2021 – 2023.
Đối với việc kiểm soát xuất nhập cảnh, di cư tự do, kết hôn không giá thú ở vùng biên giới, hai bên đã phối hợp triển khai hiệu quả và hoàn thành việc thực hiện Thỏa thuận cấp Chính phủ giải quyết vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới Việt Nam – Lào ký năm 20135. Thỏa thuận có hiệu lực từ ngày 14/11/2013, được Chính phủ hai nước gia hạn đến 14/11/2019. Hai bên đã cấp các giấy tờ hộ tịch, quốc tịch cho khoảng hơn 8.000 người dân Việt Nam và Lào di cư tự do, kết hôn không giá thú trong khu vực biên giới. Bộ Công an Việt Nam đã triển khai Kế hoạch số 134/KH-BCA-V11 ngày 21/6/2018 về thực hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 03/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn tình trạng người Việt Nam xuất cảnh, di cư trái phép, cư trú lao động bất hợp pháp, vi phạm pháp luật nước ngoài trong tình hình hiện nay”.
Từ năm 2021 đến nay, thông qua khuôn khổ hợp tác INTERPOL, ASEANAPOL và hợp tác song phương, Bộ Công an Việt Nam thường xuyên triển khai nhiều hoạt động hợp tác phòng, chống tội phạm với các đơn vị nghiệp vụ và Văn phòng INTERPOL của Lào. Trong đó, hai bên tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, chủ động nắm tình hình các loại tội phạm xuyên quốc gia, các đường dây, tụ điểm phức tạp và kịp thời phối hợp với các đơn vị có liên quan đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm về ma túy, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mua bán người, buôn lậu… Phối hợp chắt chẽ trong điều tra, xác minh các vụ án, vụ việc về tội phạm xuyên quốc gia liên quan đến hai nước Việt Nam – Lào; phối hợp xác minh, truy bắt các đối tượng truy nã của Việt Nam lẩn trốn sang Lào và ngược lại. Hai bên đã trao đổi, xử lý nhiều yêu cầu xác minh thông tin, vụ việc thông qua kênh INTERPOL, phục vụ hiệu quả công tác điều tra tội phạm của Công an các đơn vị, địa phương. Phối hợp rà soát và trao đổi thông tin về các đối tượng truy nã của mỗi nước nghi ngờ lẩn trốn trên lãnh thổ nước kia.
Ba là, về hợp tác và phát triển khu vực biên giới, mở, nâng cấp cửa khẩu, đấu nối giao thông.
Hai bên đã thống nhất định hướng về quy hoạch phát triển cửa khẩu biên giới giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là cơ sở để hai bên có kế hoạch, lộ trình mở, nâng cấp cửa khẩu phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước6. Trên cơ sở định hướng song phương này, Bộ Ngoại giao đã chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan xây dựng hợp phần “Thực trạng và phương hướng phát triển hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050” tích hợp trong Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 20507; hoàn thiện hồ sơ trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch cửa khẩu trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Lào8; tổ chức Hội nghị quán triệt và hướng dẫn triển khai thực hiện các Quy hoạch đã được phê duyệt vào đầu tháng 4/2024.
Bốn là, phát triển cửa khẩu phù hợp với thực tiễn và nhu cầu.
Trên cơ sở các quy định của điều ước quốc tế song phương về quản lý biên giới và cửa khẩu, Việt Nam và Lào đã triển khai hiệu quả công tác mở, nâng cấp cửa khẩu cũng như đẩy nhanh đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác quản lý biên giới trên đất liền, đáp ứng nhu cầu giao thương của người dân và doanh nghiệp hai nước. Từ 8 cửa khẩu chính được ghi nhận trong Hiệp định về quy chế biên giới năm 1990, đến nay giữa hai nước đã có 33 cửa khẩu đang hoạt động trên toàn tuyến bao gồm 10 cửa khẩu quốc tế, 5 cửa khẩu chính và 18 cửa khẩu phụ cùng nhiều lối mở biên giới, đường qua lại truyền thống để đáp ứng nhu cầu qua lại và góp phần thúc đẩy hợp tác – phát triển giữa hai bên biên giới. Thời gian qua, hai nước đã phối hợp chặt chẽ trong công tác mở, nâng cấp một số cửa khẩu, lối mở trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào như: tỉnh Quảng Nam đã phối hợp với tỉnh Xê Kông (Lào) tổ chức Lễ công bố khai trương cặp cửa khẩu quốc tế Nam Giang – Đắk Tà Oóc (năm 2021); tỉnh Điện Biên đã phối hợp với tỉnh Phong Sa Lỳ tổ chức khai trương cặp lối mở Nậm Đích – Huổi Hịa (năm 2023); tỉnh Sơn La phối hợp với tỉnh Hủa Phăn tổ chức Lễ công bố khai trương cửa khẩu quốc tế Lóng Sập – Pa Háng (năm 2024).
Năm là, xử lý đối ngoại liên quan đến vận hành cửa khẩu.
Các cơ quan chức năng và địa phương hai bên đã phối hợp chặt chẽ để xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý, vận hành hệ thống cửa khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các biện pháp phòng chống dịch và duy trì hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa phù hợp qua biên giới, sau đó, từng bước khôi phục việc xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu chính, cửa khẩu phụ sau khi hai bên cơ bản kiểm soát được dịch bệnh, góp phần tăng cường tin cậy lẫn nhau và nâng cao hiệu quả hợp tác quản lý biên giới chung.
Hai bên cũng đã phối hợp để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động cửa khẩu, kết nối giao thông qua cửa khẩu. Phối hợp khảo sát song phương để giải quyết một số vấn đề liên quan đến cửa khẩu, như: xác định điểm đấu nối giao thông tại cửa khẩu Hồng Vân (Huế) – Cô Tài (Sả Lạ Văn); xác định vị trí xây dựng cửa khẩu phụ Nậm Lạnh (Sơn La)…
Sáu là, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giao lưu biên giới và hợp tác quốc tế.
Trong khuôn khổ các sáng kiến hợp tác khu vực, như tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS), Hành lang kinh tế Đông – Tây, dự án đường Xuyên Á, Việt Nam và Lào có điều kiện thuận lợi để kết nối với các sáng kiến này thông qua việc phát triển các cửa khẩu. Trên cơ sở các dự án phát triển hạ tầng giao thông chiến lược đã được Việt Nam và Lào thống nhất triển khai, tiêu biểu như tuyến cao tốc Hà Nội – Viêng Chăn, tuyến đường sắt Viêng Chăn – Vũng Áng (Hà Tĩnh) cùng một số dự án kết nối đường bộ xuyên biên giới khác, trong tương lai sẽ hình thành các hành lang kinh tế theo trục Đông – Tây. Các tuyến hành lang này sẽ tạo sự kết nối trực tiếp từ khu vực miền Trung Việt Nam, thông qua Lào, sang Thái Lan và tiếp tục tới Myanmar, qua đó, thúc đẩy liên kết khu vực và hội nhập kinh tế sâu rộng hơn. Việt Nam và Lào luôn ủng hộ lẫn nhau trong việc tăng cường kết nối, tham gia vào các sáng kiến liên kết vùng.
Để cụ thể hoá quy định của Hiệp định về tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa và người qua lại biên giới giữa các nước trong khu vực tiểu vùng Mê Kông (Hiệp định GMS-CBTA năm 1999), hai nước Việt Nam và Lào đã ký Bản ghi nhớ về triển khai ban đầu Hiệp định GMS-CBTA (MOU 2005), trong đó lựa chọn cặp cửa khẩu quốc tế Lao Bảo – Đen Sạ Vẳn để triển khai thủ tục kiểm tra “một cửa, một lần dừng” (SWI/SSI). Từ năm 2015, hai nước phối hợp triển khai đầy đủ thủ tục kiểm tra SWI/SSI (4 bước) ở cặp cửa khẩu quốc tế này9.
Về nội bộ, các bộ, ngành và địa phương của Việt Nam đã triển khai hiệu quả các nội dung về phát triển kinh tế khu vực biên giới đất liền được nêu tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chính phủ, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới, phát triển kinh tế – xã hội khu vực biên giới đất liền, phát triển các vùng trọng điểm; hỗ trợ địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong phát triển kinh tế khu vực biên giới. Đặc biệt, trong những năm qua, hợp tác phát triển kinh tế, bao gồm phát triển thương mại khu vực biên giới là trọng tâm thảo luận trong tiếp xúc giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước. Đây cũng là vấn đề xuyên suốt tại các cơ chế hợp tác song phương định kỳ giữa hai nước.
Lãnh đạo cấp cao hai nước đều nhất trí thúc đẩy, khuyến khích đầu tư vào các ngành mà hai Bên có thế mạnh, nhu cầu như: năng lượng, chuyển đổi số, công nghệ, nông nghiệp (nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao), du lịch… Riêng về lĩnh vực năng lượng, các đối tác của hai bên đang triển khai nhiều dự án đầu tư trọng điểm với quy mô lớn, đồng thời cũng có nhiều dự án mới đang được nghiên cứu triển khai hoặc đã được phía Lào cấp phép. Việc rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang Lào, nhất là những dự án đầu tư có ý nghĩa về quốc phòng – an ninh kết hợp phát triển kinh tế – xã hội là một trong những ưu tiên của ta.
Kim ngạch thương mại song phương trung bình đạt hơn 1 tỷ USD/năm, tăng trưởng hơn 10%/năm. Trong năm 2024, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới Việt Nam – Lào đạt 5,08 tỷ USD, tăng 10,7% so với năm 2023. Bước sang 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch thương mại song phương đạt 1,6 tỷ USD, tăng 100,4% so với cùng kỳ năm 2024, cho thấy mức tăng trưởng đột biến trong quan hệ kinh tế giữa hai nước10.
Bảy là, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về biên giới
Những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân khu vực biên giới Việt Nam – Lào được các cấp, ngành quan tâm chỉ đạo và đạt nhiều kết quả tích cực. Hoạt động được triển khai với nhiều hình thức như hội nghị trực tiếp, tư vấn pháp luật, lồng ghép trong lễ hội, sinh hoạt cộng đồng, trợ giúp pháp lý lưu động, đối thoại với Nhân dân và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật. Nhiều mô hình, cách làm sáng tạo đã phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân biên giới. Đây là cơ sở quan trọng để tiếp tục nhân rộng và phát huy trong thời gian tới.
Năm 2022, Bộ Ngoại giao Việt Nam và Lào đã phối hợp tổ chức “Hội nghị tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật cho các trưởng bản tiêu biểu hai bên biên giới” với sự tham dự của hơn 300 đại biểu, trong đó gần 200 trưởng bản của các tỉnh biên giới Việt Nam và 10 tỉnh biên giới Lào11. Hội nghị giúp các đại biểu nắm bắt thêm thông tin quan trọng về chủ trương, chính sách liên quan đến biên giới lãnh thổ, khẳng định vai trò của đội ngũ trưởng bản trong công tác bảo vệ biên giới và củng cố quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào. Trên cơ sở đồng thuận, hai bên thống nhất tổ chức Hội nghị này định kỳ 5 năm/2 lần, với hình thức linh hoạt nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền pháp luật, vận động nhân dân tích cực tham gia bảo vệ biên giới.
Những thành tựu đạt được trong hợp tác quản lý và bảo vệ biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Lào đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Các kết quả này không chỉ góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, mà còn tạo động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội, tăng cường hợp tác và giao lưu văn hóa, thương mại, đầu tư ở khu vực biên giới nói riêng và giữa hai quốc gia nói chung.
Bên cạnh thuận lợi, công táchợp tác quản lý và bảo vệ biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Lào cũng còn có những khó khăn, thách thức, như:
(1) Địa hình tuyến biên giới Việt Nam – Lào nhiều núi cao, khe sâu, thời tiết khắc nghiệt, mùa mưa thường có lũ quét, mùa đông thường bị sương mù che khuất tầm nhìn, trong khi đó, hệ thống giao thông còn nhiều yếu kém, gây khó khăn cho công tác quản lý biên giới và hợp tác phát triển. (2) Sựphối hợp trong công tác mở cửa khẩu, triển khai các dự án hợp tác ở khu vực biên giới hai bên chưa thực sự đạt hiệu quả. (3) Đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội của nhân dân khu vực biên giới còn nhiều khó khăn; nhận thức về đường biên, mốc giới và pháp luật của một bộ phận nhân dân biên giới còn hạn chế. (4) Bên cạnh việc triển khai các chương trình, dự án hợp tác song phương và sự gia tăng hoạt động thương mại, giao lưu nhân dân ở khu vực biên giới, các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng nổi lên. Các vấn đề như buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán người, lưu hành tiền giả, tội phạm có tổ chức xuyên biên giới, khủng bố và ô nhiễm môi trường đang tác động trực tiếp, đe dọa trật tự an toàn xã hội cũng như an ninh, ổn định vùng biên giới.
5. Kết luận
Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Lào trong quản lý, bảo vệ biên giới trên đất liền là một điển hình thành công của ngoại giao láng giềng, được xây dựng trên nền tảng quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước. Những thành tựu đạt được trong thời gian qua đã khẳng định giá trị bền vững của cơ sở pháp lý biên giới, vai trò quan trọng của lực lượng chức năng hai bên, cũng như sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư biên giới.
Tuy nhiên, hợp tác này vẫn đứng trước nhiều thách thức như địa hình phức tạp, hạ tầng chưa đồng bộ, đời sống nhân dân còn khó khăn, các loại tội phạm xuyên quốc gia, an ninh phi truyền thống và sức ép từ quá trình hội nhập khu vực. Trong bối cảnh đó, Việt Nam và Lào cần tiếp tục tăng cường phối hợp, nâng cao năng lực quản lý, hoàn thiện hạ tầng cửa khẩu, thúc đẩy phát triển kinh tế biên giới; đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để củng cố nền tảng xã hội cho công tác bảo vệ biên giới. Những nỗ lực này sẽ góp phần giữ vững an ninh, ổn định và mở ra triển vọng hợp tác lâu dài, bền vững giữa hai quốc gia.
Chú thích:
1. Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài cấp Bộ “Quản lý nhà nước về biên giới phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, chính trị vùng biên giới đất liền ở Việt Nam hiện nay” theo Hợp đồng số 149/HĐKH-KHXH do Tiến sĩ Vũ Quý Sơn làm chủ nhiệm.
2. Bộ Ngoại Giao (2017). Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
3. Kết nghĩa bản – bản, tô thắm thêm tình đoàn kết Việt – Lào. https://baodantoc.vn/ket-nghia-ban-ban-to-tham-them-tinh-doan-ket-viet-lao-1694675086754.htm.
4. Cuộc họp thường niên lần thứ 33 giữa hai Đoàn đại biểu biên giới Việt Nam – Lào. https://baodantoc.vn/cuoc-hop-thuong-nien-lan-thu-33-giua-hai-doan-dai-bieu-bien-gioi-viet-nam-lao-1703844251138.htm.
5. Quốc hội (2013). Nghị quyết số 48/2013/QH13 ngày 20/6/2013 về việc đàm phán, ký thỏa thuận cấp chính phủ giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới Việt Nam – Lào.
6, 8. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định 1201/QĐ-TTg ngày 14/10/20213 Phê duyệt Quy hoạch cửa khẩu trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Lào thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
7. Quốc hội (2023). Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09/01/2023 của Quốc hội: Về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
9. Kiểm tra “một cửa, một lần dừng” tại cửa khẩu quốc tế Lao Bảo. https://ttdn.vn/nghien-cuu-trao-doi/ly-luan-thuc-tien/mo-hinh-kiem-tra-kiem-soat-mot-cua-mot-lan-dung-kinh-nghiem-thuc-tien-bo-ich-o-tam-quoc-te.
10. Tăng cường kết nối, thúc đẩy đầu tư, thương mại tại Hội chợ Thương mại Việt – Lào 2025. https://tapchicongthuong.vn/tang-cuong-ket-noi–thuc-day-dau-tu–thuong-mai-tai-hoi-cho-thuong-mai-viet-lao-2025-142919.htm
11. Tăng cường phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về biên giới. https://quangnam.gov.vn/tang-cuong-pho-bien-tuyen-truyen-giao-duc-phap-luat-ve-bien-gioi.