Lê Minh Duẩn
NCS của Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – TP. Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung ương, thuộc loại đô thị đặc biệt. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, TP. Hồ Chí Minh đã đạt được rất nhiều thành tựu và có những đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, tốc độ đô thị hóa nhanh ảnh hưởng xấu đến môi trường, đến sức khỏe của người dân và đang dần phá vỡ hệ sinh thái. Thiệt hại kinh tế do gia tăng chi phí khám, chữa bệnh; ảnh hưởng đối với hoạt động du lịch; tăng chi phí cho các hoạt động bảo vệ môi trường… Từ đó, đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội cần đặt trong chiến lược phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, phát triển theo mô hình bền vững, tuần hoàn xanh. Bài viết phân tích thực trạng quản lý nhà nước về môi trường, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thời gian tới.
Từ khóa: TP. Hồ Chí Minh, giải pháp, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế bền vững.
1. Những kết quả đạt được
Một là, các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường thành phố đã nhận thức và xác định đúng đắn tầm quan trọng của môi trường, mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo vệ môi trường. Chính quyền thành phố đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, bao quát được hầu hết các lĩnh vực và tích cực triển khai thực hiện các văn bản này. 12 quyết định được Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố ban hành nhằm công bố thủ tục hành chính về lĩnh vực môi trường; điều chỉnh các nội dung liên quan chất lượng nước công trình thủy lợi; về thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải cồng kềnh, chất thải y tế…
Đặc biệt, UBND Thành phố đã ban hành quyết định về quy định khu vực, địa điểm đổ thải khi nạo vét từ hệ thống giao thông đường thủy nội địa và đường biển; có giải pháp phân luồng giao thông, kiểm soát ô nhiễm môi trường nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường trong không khí đối với đô thị loại đặc biệt, đô thị loại một trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, UBND thành phố đang tổ chức thực hiện dự thảo 10 văn bản (quyết định); trong đó, đáng chú ý là các quy định về giá cụ thể dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Các sở, ngành Thành phố đã tập trung mọi nỗ lực trong việc thực thi chính sách pháp luật liên quan bảo vệ môi trường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực bởi đây là lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân và đã có những nội dung báo cáo bám sát thực trạng liên quan môi trường diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh để có những đề xuất khả thi, hiệu quả. Nhận thức của các cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức, các doanh nghiệp và người dân về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và phát triển bền vững được nâng lên.
Hai là, UBND thành phố đã tăng cường đầu tư cho các chương trình, dự án về môi trường; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để thực hiện các dự án và tiến hành các hoạt động giải quyết ô nhiễm môi trường trên địa bàn. Là địa phương có nhiều thế mạnh trong phát triển kinh tế – xã hội so với cả nước, TP. Hồ Chí Minh có rất nhiều tiềm lực thu hút đầu tư của các đối tác nước ngoài cũng như trong nước cho nhiều hoạt động ở nhiều lĩnh vực. Do đó, việc chú trọng để tìm kiếm, khai thác và ứng dụng các công nghệ hiện đại, thực hiện các dự án được tài trợ giúp bảo vệ môi trường chính là thể hiện thái độ tích cực và nghiêm túc của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường thành phố.
Cụ thể, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố triển khai Hội thi xây dựng công trình sạch – xanh – thân thiện môi trường dựa vào cộng đồng dân cư hàng năm; tổ chức tập huấn công tác bảo vệ môi trường cho nhiều đối tượng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất: Ban Quản lý Hepza đã tổ chức các lớp tập huấn tuyên truyền phổ biến các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường; nâng cao nhận thức về mô hình kinh tế tuần hoàn, khu công nghiệp sinh thái, tăng trưởng xanh, sản xuất sạch hơn…
Đối với việc kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp và làng nghề, từ năm 2015, 100% khu công nghiệp, khu chế xuất đều có hệ thống thu gom, thoát nước mưa và hệ thống thu gom, thoát nước thải riêng biệt; có hệ thống xử lý nước thải tập trung; 16/17 khu công nghiệp, khu chế xuất lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải tự động, liên tục; đã xây dựng kế hoạch và phương án phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, hồ sự cố.
Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất thường xuyên giám sát, kiểm tra công tác vận hành các hệ thống xử lý nước thải; bảo đảm chất lượng môi trường nước mặt được kiểm soát chặt chẽ, nước thải sau xử lý của Nhà máy xử lý nước thải tập trung trước khi xả ra ngoài môi trường được quan trắc định kỳ và tự động kiểm định chất lượng nước liên tục.
Ba là, Thành phố đã cơ bản phục hồi và bảo vệ, phát triển khu rừng ngập mặn Cần Giờ theo hướng bền vững, từ khi phục hồi môi trường sinh thái vùng ngập mặn Cần Giờ được cải thiện, sản lượng tôm cá vùng rừng ngập mặn ngày càng nâng cao. Rừng ngập mặn Cần Giờ còn giữ vai trò là “lá phổi” điều hòa khí hậu cho thành phố, cho các vùng lân cận và tô điểm cảnh quan phục vụ phát triển du lịch. Hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ được khôi phục và phát triển theo hướng đa dạng, bền vững và đã được các tổ chức Quốc tế trong và ngoài nước, các nhà khoa học đánh giá cao, được tổ chức UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Đó là một thành công lớn của TP. Hồ Chí Minh trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Bốn là, UBND Thành phố đã quyết liệt trong việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm. Thực trạng hiện nay các cơ sở sản xuất hoạt động ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố đều không phù hợp quy hoạch xây dựng đô thị (thống kê sơ bộ, có hơn 10.000 cơ sở). Các cơ sở này đa số là cơ sở vừa và nhỏ, có vốn đầu tư ít, diện tích mặt bằng hạn chế, công tác bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức, việc xử lý chất thải chưa được đầu tư thỏa đáng, nhất là các cơ sở sản xuất có công nghệ thiết bị cũ, lạc hậu nằm xen cài trong khu dân cư hoặc không bảo đảm khoảng cách an toàn về môi trường, nguy cơ gây cháy nổ đối với khu dân cư nên gây tác động xấu đến cộng đồng dân cư và gây khó khăn trong công tác quản lý, kiểm soát.
UBND thành phố đã thành lập Ban Chỉ đạo xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường và cơ sở không phù hợp quy hoạch và có nguy cơ cháy, nổ xen cài trong khu dân cư trên địa bàn thành phố và đã ban hành Kế hoạch xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Năm là, quan tâm xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị chức năng để thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. UBND TP. Hồ Chí Minh giao cho các cơ quan chức năng, Ban Quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp thành phố, các địa phương khảo sát tình trạng ô nhiễm nước trên các kênh: Thầy Cai, An Hạ, Rạch Tra. Trên cơ sở đó đã báo cáo đề xuất UBND Thành phố chỉ đạo các ban, ngành có liên quan xây dựng kế hoạch phối hợp để tăng cường kiểm tra xử lý các vi phạm làm ô nhiễm môi trường nước mặt trên địa bàn. Xây dựng quy chế tạm thời phối hợp thực hiện xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường giữa Công an thành phố với cơ quan, đơn vị liên quan.
Sáu là, thành phố đã chú trọng công tác đánh giá toàn diện về các vướng mắc, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Chẳng hạn, như: vấn đề xử phạt vi phạm hành chính về môi trường, về công tác thanh tra, kiểm tra hay trong công tác thực hiện Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Có 105 doanh nghiệp phải thực hiện việc di dời hoặc thay đổi công nghệ hoặc xử lý ô nhiễm triệt để nhằm tiếp tục sản xuất tại chỗ. Trong đó, phần lớn là những doanh nghiệp nhà nước thuộc trung ương quản lý, quy mô sản xuất lớn, công nghệ và thiết bị sản xuất lạc hậu, do đó, việc di dời đúng tiến độ là rất khó thực hiện. Với số lượng doanh nghiệp di dời phát sinh nhưng chưa có sự xem xet và chuẩn bị đầy đủ địa điểm tiếp nhận doanh nghiệp di dời. Diện tích sẵn sàng cho thuê của các khu công nghiệp hiện hữu không đáp ứng được nhu cầu của hơn 1.000 doanh nghiệp phải di dời. Qua đánh giá thực trạng tổng quan đã giúp cơ quan chức năng nhìn nhận đúng đắn về năng lực công tác và chủ động tìm kiếm giải pháp bảo vệ môi trường được hiệu quả hơn.
2. Một số thách thức, khó khăn
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn vẫn còn có những hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế có nhiều vấn đề mới nảy sinh. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn còn chồng chéo, tồn tại và bất cập cần tiếp tục được nghiên cứu nhằm chỉnh sửa, bổ sung cho đầy đủ, đồng bộ đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Công tác xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường của các bộ, ngành, địa phương và việc phân bổ nguồn lực cho hoạt động bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức. Công tác bảo tồn đa dạng sinh học cần được quan tâm và phát huy hiệu quả hơn nữa…
Bộ máy quản lý nhà nước về môi trường dù đã được kiện toàn nhiều lần nhưng vẫn chưa đồng bộ và thống nhất từ trung ương đến địa phương, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa giải quyết hiệu quả được các vấn đề liên ngành, liên vùng, xuyên quốc gia, chưa ngang tầm với yêu cầu bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Việc phân công nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn phân tán, chồng chéo và chưa hợp lý, nhất là trong quản lý chất thải và đa dạng sinh học. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa theo kịp các yêu cầu mới đặt ra, nhất là ở các địa phương, cơ sở, còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Đầu tư, chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, huy động các nguồn lực trong xã hội cho công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; sử dụng nguồn lực tài chính dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm nên hiệu quả thấp. Chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường đã đạt 1% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm, nhưng còn dàn trải. Tại một số địa phương việc sử dụng nguồn chi thường xuyên cho sự nghiệp môi trường chưa đúng mục đích, chưa hiệu quả. Tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp.
Nguồn vốn ODA cho bảo vệ môi trường còn thấp, phân tán và đang có xu hướng giảm dần. “Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả chi phí xử lý, khắc phục, cải tạo môi trường”, “người hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải trả tiền” chưa được áp dụng, mức chi chưa đúng, chưa đủ. Ô nhiễm môi trường nhiều nơi đang có nguy cơ vượt ngưỡng chịu đựng của các hệ sinh thái, ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống kinh tế – xã hội, điều kiện sống và sức khỏe của Nhân dân. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường gia tăng nhanh về số lượng, quy mô và mức độ tác động xấu lên môi trường, làm cho môi trường đất, nước, không khí nhiều nơi bị ô nhiễm, có nơi đã đến mức nghiêm trọng.
Cho đến nay, tiến độ xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa đạt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ các dự án đầu tư được kiểm tra, xác nhận tuân thủ báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi cho phép vận hành còn thấp. Ô nhiễm ở các làng nghề tồn tại từ rất lâu nhưng chưa có biện pháp khắc phục và giải quyết hiệu quả. Một số kết quả đạt được còn mang tính cục bộ, thiếu bền vững và chưa được nhân rộng. Nhìn chung, ô nhiễm làng nghề đã và vẫn là nghiêm trọng, gây nhiều bức xúc trong xã hội. Quản lý chất thải rắn còn nhiều hạn chế. Hầu hết chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị và nông thôn chưa được phân loại tại nguồn.
Hoạt động tái chế còn manh mún, chưa có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, đang phát triển tự phát ở các làng nghề, với công nghệ thủ công, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Chất thải rắn vẫn chủ yếu được xử lý bằng chôn lấp, trong khi đó có hơn 80% các bãi chôn lấp không bảo đảm yêu cầu kỹ thuật, vệ sinh môi trường. Chất thải nguy hại chưa được quản lý tốt, thiếu công nghệ, thiết bị nên xử lý kém hiệu quả, tiêu hủy chưa an toàn. Nhiều loại chất thải công nghiệp, hóa chất nguy hại, bì thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu, chất thải y tế nguy hại chưa được xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu. Việc nhập khẩu các công nghệ cũ, rác thải dưới nhiều hình thức vẫn chưa được kiểm soát, ngăn chặn triệt để.
Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường còn lạc hậu, yếu, không đồng bộ. Khoảng hơn 35% khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung hoặc có nhưng không đáp ứng yêu cầu. Hiện nay, trên 60% trong số 1 triệu m3 nước thải/ngày/đêm từ các khu công nghiệp xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận, không qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng ở nhiều nơi. Thành phố hầu như chưa có đầy đủ hệ thống xử lý nước thải tập trung nên nước thải được thải trực tiếp ra kênh rạch và sông ngòi, từ đó gây ô nhiễm nước, đồng thời tác động gây ô nhiễm đất.
Vấn đề ô nhiễm công nghiệp và cải thiện môi trường do hoạt động công nghiệp còn nhiều hạn chế; việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tràn làn, khó quản lý; công tác khai thác nước ngầm thiếu quy hoạch, không kiểm soát, gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, xâm nhập mặn, sụt lún đất; khai thác đất, cát trái phép, gây sạt lở đất và ảnh hưởng lớn đến dòng chảy; sự cố tràn dầu làm ô nhiễm nước trầm trọng; nước thải của các chất hữu cơ, chất tẩy rửa, nước thải bệnh viện, các kim loại nặng, hóa chất nguy hại, dầu mỡ, nhất là nước rỉ của các bãi rác chôn lấp ở ngoại thành… Tất cả những điều trên tùy mức độ và tính chất đã ảnh hưởng và tác động rất nhiều đến môi trường nước và cả môi trường đất, gây ô nhiễm.
Chiến lược về bảo vệ môi trường thành phố đã xây dựng nhưng việc triển khai thực hiện thiếu sát sao, chặt chẽ, dẫn đến có những nội dung đã được xác định nhưng lại chưa làm được. Mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong côn tác thanh tra, kiểm tra chưa thật nhịp nhàng, chặt chẽ, khoa học. Công tác thanh tra chưa thực hiện thường xuyên, quyết liệt và triệt để.
Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường tuy đã được hình thành về cơ bản nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nhiều quy định còn chung chung, chỉ mang tính nguyên tắc. Còn thiếu hoặc đã có quy định nhưng chưa đầy đủ về bảo vệ môi trường đất, nước, không khí, về tái chế chất thải, về khắc phục ô nhiễm, cải tạo, phục hồi môi trường, về tiêu dùng bền vững. Chưa tạo ra hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi để khuyến khích phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường và sản phẩm thân thiện với môi trường.
Thiếu các cơ chế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, giải quyết tranh chấp, xung đột về môi trường. Mặc dù đã có các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ luật Hình sự nhưng chưa đầy đủ và cụ thể nên khó thực hiện trên thực tế. Cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chậm đổi mới, chưa đồng bộ với thể chế thị trường. Các loại thuế, phí về môi trường mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò là công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
Công tác thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải công nghiệp, rác thải nguy hại hầu như điều do tư nhân thực hiện. Hệ thống quản lý nhà nước trong lĩnh vực rác thải công nghiệp, rác thải nguy hại đang gặp phải vấn đề nguy hại rất lớn là các chính sách, văn bản pháp luật còn chưa đầy đủ, nhân lực ít và thiếu kinh nghiệm, chuyên môn; các phương tiện kỹ thuật chưa được trang bị đầy đủ để quản lý hệ thống.
Những tồn tại nêu trên cho thấy, tình hình quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở TP. Hồ Chí Minh còn những thách thức, bất cập nhất định, chưa đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
3. Một số kiến nghị, giải pháp
Kiến nghị Chính phủ ban hành chính sách quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng trạm trung chuyển chất thải rắn sinh hoạt. Bộ Nông nghiệp và Môi trường hướng dẫn thẩm quyền của UBND cấp tỉnh trong việc quy định các nhóm chất thải sau phân loại phù hợp với hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường, công nghệ xử lý chất thải của địa phương; quy định, cơ chế để khuyến khích hộ gia đình, cá nhân thực hiện việc phân loại nhóm chất thải thực phẩm và chất thải sinh hoạt khác. Kiến nghị Bộ Công Thương xem xét, điều chỉnh tăng quy mô nguồn điện rác của TP. Hồ Chí Minh trong Kế hoạch thực hiện quy hoạch điện VIII (hiện mới chỉ phân bổ 123MW) lên tối thiểu 240 MW để phù hợp với hiện trạng triển khai các dự án xây dựng nhà máy xử lý rác theo công nghệ đốt phát điện trên địa bàn Thành phố.
Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần có hướng dẫn thực hiện quy định về việc lập phương án giá hàng hóa, dịch vụ, thẩm quyền thẩm định phương án giá, trình và ban hành văn bản định giá dịch vụ về quản lý thị trường dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH). Kiến nghị Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ chuyên ngành và TP. Hồ Chí Minh phối hợp tính toán giá bán tín chỉ carbon trong từng dự án cụ thể khi các dự án này triển khai. Đồng thời, ban hành thông tư quy định về tính toán giá sàn cho tín chỉ carbon của các ngành, trong đó sẽ hướng dẫn phương thức xác định giá sàn để bán tín chỉ carbon trong tất cả các ngành.
Trong thời gian tới, TP. Hồ Chí Minh cần tiếp tục thực hiện các giải pháp, triển khai các đề án, kế hoạch, các dự án về bảo vệ môi trường. Đồng thời, sớm hoàn thiện các văn bản bảo vệ môi trường thuộc thẩm quyền của Thành phố để triển khai Luật Bảo vệ môi trường đồng bộ trên địa bàn và cần có các giải pháp triệt để, hiệu quả và đồng bộ hơn về vệ sinh môi trường.
Thứ nhất, Thành phố tiếp tục rà soát việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trong các khu dân cư để triển khai di dời triệt để, đồng thời rà soát các thiết bị đo ô nhiễm môi trường, như: tiếng ồn, âm thanh, đo bụi… để nâng cao vai trò trách nhiệm của chính quyền cơ sở; tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, cần tính toán các phương án phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn và việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt hợp lý hơn, hiện nay việc gom rác vẫn chưa đồng bộ và thông suốt.
Các cơ quan, đơn vị được phân công, phân cấp cần chủ động rà soát, kiểm tra, đề xuất xử lý triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường tại các cơ quan, đơn vị; rà soát, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quy định pháp luật về bảo vệ môi trường (tập trung vào công tác quản lý, xử lý chất thải phát sinh) trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các sở, ngành Thành phố và các cơ quan, đơn vị có liên quan, có giải pháp khắc phục nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động và tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Chú trọng công tác phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm; hoạt động quản lý chất thải, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường. Đối với các chương trình mục tiêu hỗ trợ để xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần được quan tâm hơn nữa.
Thứ ba, tăng cường lắp đặt và vận hành hệ thống quan trắc môi trường tự động, kết nối dữ liệu với cơ quan quản lý để giám sát liên tục. Tăng cường hậu kiểm đối với các dự án sau khi được các cấp đánh giá tác động môi trường hoặc được cấp giấy phép môi trường. Khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin, cảm biến môi trường, phản ánh từ người dân để giám sát ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ xử lý chất thải, tiết kiệm năng lượng và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn.
Thứ tư, các sở, ngành Thành phố và các cơ quan, đơn vị có liên quan thường xuyên mở các chiến dịch, cao điểm tuyên truyền, phát động phong trào toàn dân tham gia phát hiện tố giác, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về môi trường trên địa bàn và trong lĩnh vực phụ trách. Công khai thông tin các tổ chức, cá nhân vi phạm gây ô nhiễm môi trường lên Cổng thông tin điện tử của TP. Hồ Chí Minh nhằm minh bạch hóa và nâng cao trách nhiệm xã hội trong toàn dân. Xử lý nghiêm, triệt để (đình chỉ hoạt động hoặc rút giấy phép) những tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm gây ô nhiễm môi trường từ 2 lần trở lên trong thời hạn 1 năm…
4. Kết luận
Có thể thấy thời gian qua công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở TP. Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn có những hạn chế, bất cập được phân tích, xác định rõ. Để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế, bất cập trong thời gian tới, Thành phố cần có sự đồng tâm của các cấp ủy, chính quyền đưa ra các giải pháp thực hiện đồng bộ để công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở TP. Hồ Chí Minh được tổ chức chặt chẽ và hiệu quả hơn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác quản lý bảo vệ môi trường nói riêng tại TP. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2020). Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
2. Thủ tướng Chính phủ (2003). Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 về di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường.
3. Hồi sinh, phát triển rừng ngập mặn Cần Giờ: Gìn giữ, phát triển ‘bể carbon xanh’. https://baotintuc.vn/xa-hoi/hoi-sinh-phat-trien-rung-ngap-man-can-gio-gin-giu-phat-trien-be-carbon-xanh-20250305135248899.htm.
4. TP. Hồ Chí Minh kiến nghị tăng quy mô công suất nguồn điện từ rác, gió và khí. https://www.sggp.org.vn/tphcm-kien-nghi-tang-quy-mo-cong-suat-nguon-dien-tu-rac-gio-va-khi-post784087.html.
5. TP. Hồ Chí Minh kiến nghị nhiều chính sách về bảo vệ môi trường. https://khoahocphothong.vn/tp-hcm-kien-nghi-nhieu-chinh-sach-ve-bao-ve-moi-truong-259224.html.
6. Tăng cường rà soát, kiểm tra, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm, khu vực, địa điểm ô nhiễm môi trường. https://www.hochiminhcity.gov.vn/vi/web/hcm/w/tang-cuong-ra-soat-kiem-tra-xu-ly-cac-co-so-gay-o-nhiem-khu-vuc-ia-iem-o-nhiem-moi-truong.