TS. Lê Đình Thảo
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật vận động khách quan của cách mạng Việt Nam. Song các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, chống phá con đường cách mạng Việt Nam. Chúng cho rằng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định là sai lầm, chủ quan duy ý chí. Nội dung bài viết phân tích những lựa chọn cách mạng của Nhân dân Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ khóa: Nhân dân Việt Nam; lựa chọn của Nhân dân; thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Quần chúng nhân dân là những người giữ vai trò quyết định lịch sử, lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử. Quy luật của cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn của chính Nhân dân Việt Nam, không phải là sự du nhập từ phương Tây và càng không thể là sự áp đặt một cách chủ quan duy ý chí đối với Nhân dân Việt Nam. Song các thế lực thù địch, phản động cố tình không hiểu, không thừa nhận chân lý đó, tìm mọi cách để xuyên tạc về quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của Việt Nam, gây hoang mang, dao động ở không ít cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Vì vậy, để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cần thiết phải nghiên cứu và luận chứng, làm rõ về quá độ đi lên CNXH đã và sẽ tiếp tục là sự lựa chọn của chính Nhân dân Việt Nam.
2. Lựa chọn của quần chúng nhân dân là quy luật vận động, phát triển của xã hội
Lựa chọn là sự phân tích, cân nhắc, quyết định, thực hiện hành vi (hành động hoặc không hành động) của con người nhằm giải quyết một vấn đề nào đó trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trên cơ sở đó, đạt được những lợi ích mong muốn. Nói đến sự lựa chọn là nói đến sự cân nhắc về hành vi, nói đến sự so sánh giữa cái có thể và cái không thể, giữa cái có lợi và cái không có lợi, giữa cái trước mắt với cái lâu dài… của con người, trên cơ sở đó xác định hành vi sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Lựa chọn của quần chúng nhân dân là sự lựa chọn của đông đảo người trong xã hội. Nói đến sự lựa chọn của quần chúng nhân dân, trước hết là nói đến sự lựa chọn của các giai cấp, tầng lớp lao động, những người đại diện cho lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định đến sự vận động, phát triển của xã hội. Sự lựa chọn của quần chúng nhân dân có thể được coi là sự đồng thuận trong xã hội trước những vấn đề mà hiện thực đặt ra.
Mong muốn, ước mơ và sự lựa chọn của con người không phải là một. Song không phải mong muốn, ước mơ nào của con người cũng có tính khách quan, có thể trở thành hiện thực. Vì vậy, không phải khi nào con người cũng hành động theo những mong muốn, ước mơ của mình. Hành động hay không hành động trước những điều kiện hoàn cảnh khách quan cụ thể là sự lựa chọn của con người. Lựa chọn là biểu hiện của sự mong muốn, song đó chỉ là những mong muốn có khả năng trở thành hiện thực, phù hợp với những điều kiện khách quan cụ thể.
Con người không phải khi nào cũng ý thức rõ về hành vi của mình. Ngay cả khi không ý thức rõ về hành vi của mình thì ở đó con người vẫn có sự lựa chọn nhưng đó là lựa chọn dưới dạng vô thức đã đi vào tiềm thức. Những kinh nghiệm thực tiễn, truyền thống văn hóa và nhiều tác động khách quan khác đã hình thành ở con người những lựa chọn một cách vô thức. Vì vậy, để có thể thấy được những lựa chọn ở quần chúng nhân dân, đòi hỏi các đảng chính trị phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh khách quan cụ thể, truyền thống văn hóa và khả năng thực tiễn của chính quần chúng nhân dân.
Lựa chọn của quần chúng nhân dân thường mang tính tích cực và cách mạng, đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, những cái đã trở nên lỗi thời lạc hậu, phản động, không đúng đắn, đấu tranh chống lại tình trạng áp bức, bóc lột, bất công, những cái đi ngược lại với lợi ích chính đáng của họ. Cùng với sự phát triển của nhận thức và khoa học, lựa chọn của quần chúng nhân dân ngày càng đúng đắn và có khả năng hiện thực. Những gì được quần chúng nhân dân lựa chọn sẽ trở thành động lực thôi thúc quần chúng nhân dân thực hiện, có khả năng phát huy tính tích cực, tự giác, những tiềm năng sáng tạo to lớn trong Nhân dân, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Cá nhân lãnh tụ, các đảng chính trị là những lực lượng có khả năng vận động, tập hợp, định hướng cho các phong trào quần chúng. Song như thế không không có nghĩa chủ quan duy ý chí, áp đặt, mà đòi hỏi các nhà tư tưởng và các đảng chính trị phải xuất phát từ điều kiện khách quan cụ thể và từ chính những gì mà quần chúng nhân dân lựa chọn và có khả năng thực hiện. Con người chỉ có thể nghĩ ra và lựa chọn cho mình những việc cần làm khi những điều kiện khách quan để thực hiện đã xuất hiện hoặc đang được hình thành. Vai trò của cá nhân lãnh tụ và các đảng chính trị là từ những điều kiện khách quan cụ thể và từ những khả năng cách mạng của quần chúng nhân dân để phát hiện ra những lựa chọn của quần chúng, từ đó định hướng, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng. Lựa chọn của quần chúng nhân dân bao giờ cũng chịu sự tác động, chi phối của những điều kiện hoàn cảnh lịch sử. Vì vậy, những tư tưởng, lý luận chủ quan duy ý chí, không phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể sẽ không được quần chúng nhân dân lựa chọn và cũng không thể áp đặt được với quần chúng nhân dân.
Trong những điều kiện lịch sử khác nhau, với khả năng nhận thức và hoạt động thực tiễn khác nhau, con người sẽ lựa chọn cho mình những hành vi khác nhau:
(1) Thời kỳ cộng sản nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, sản phẩm lao động làm ra chưa có dư thừa, con người tất yếu lựa chọn cho mình hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu làm chung, hưởng chung.
(2) Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ là những người sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhưng họ cũng là những người bị áp bức, bóc lột, không được tự do về mặt thân thể, bị coi như những công cụ biết nói. Trong bối cảnh ấy, những người nô lệ đã lựa chọn cho mình đấu tranh để được giải phóng về mặt thân thể để có thể trở thành những người nông dân tự do dẫn đến sự ra đời của xã hội phong kiến.
(3) Khi chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời, phản động với đầy rẫy áp bức, bóc lột, bất công, kìm hãm sự phát triển của lịch sử, những người lao động đã lựa chọn cùng giai cấp tư sản đấu tranh để lật đổ chế độ đó.
(4) Đến chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân ra đời là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến tiến, họ nhận thấy để được giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thì không thể dừng lại ở những đấu tranh vì những lợi ích kinh tế trước mắt mà phải đấu tranh để giành hoặc chi phối được quyền lực nhà nước, trở thành những người làm chủ xã hội. Phải đến chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân lao động mới có những cơ sở, điều kiện khách quan để từ đó có những lựa chọn cách mạng triệt để.
3. Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở, động lực cho mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam
Sau khi thực dân Pháp xâm lược, đất nước Việt Nam mất độc lập chủ quyền, Nhân dân Việt Nam sống trong tình cảnh bị nô lệ đọa đầy, phải chịu mấy tầng áp bức bóc lột. Trong tình cảnh đó, Nhân dân Việt Nam đã không ngừng đứng lên đấu tranh giành độc lập chủ quyền dân tộc. Song tất cả các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân Việt Nam theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến cũng như khuynh hướng tư tưởng tư sản đều lần lượt bị thất bại. Thất bại của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cho thấy, đường lối cứu nước theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến cũng như khuynh hướng tư tưởng tư sản đều không phù hợp với điều kiện hoàn cảnh Việt Nam, không được đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam lựa chọn. Đó không phải là những con đường giúp họ thực sự có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Từ thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu về nhiều cuộc cách mạng trên thế giới và thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động ở nhiều nước. Kết quả của quá trình tìm kiếm là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Theo Người, CNXH do Nhân dân lao động làm chủ, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân, là xã hội mà ở đó: ai cũng có cơm ăn, áo mặc, có điều kiện để học hành, ốm đau được khám chữa bệnh, người nghèo thì hết nghèo, người giàu thì ngày càng giàu hơn nữa, mọi người được tôn trọng lợi ích cá nhân, có điều kiện để phát huy hết khả năng của bản thân, làm theo năng lực hưởng theo lao động; chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham ô, lãng phí, bệnh cửa quyền; để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cần có sự lãnh đạo của một đảng thực sự cách mạng, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lựa chọn con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là chủ quan duy ý chí. Ngược lại, lựa chọn này xuất phát từ thực tiễn đấu tranh của Nhân dân Việt Nam, trên cơ sở thấu hiểu được tâm tư nguyện vọng của Nhân dân, thấy được những khả năng cách mạng to lớn họ. Chế độ phong kiến thối nát, phản động và sự áp bức, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc là cơ sở thực tiễn giúp Nhân dân Việt Nam ý thức được rằng, chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường của CNXH do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, họ mới có thể giành và giữ vững được độc lập chủ quyền dân tộc; mới có thể thực sự có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”2. Là sự lựa chọn của chính Nhân dân Việt Nam, con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã phát huy được cao độ tinh thần đấu tranh của Nhân dân Việt Nam, đó là tinh thần đấu tranh “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đây là cơ sở có ý nghĩa quyết định giúp Nhân dân Việt Nam làm nên những cuộc “chiến tranh thần kỳ”, giành và giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, sau khi giành được độc lập chủ quyền dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo Nhân dân bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Đây là thời kỳ cách mạng với những nhiệm vụ mới mẻ, chưa từng có trong lịch sử, đầy khó khăn phức tạp. Vì vậy, trong những năm đầu của quá trình xây dựng CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mắc phải những sai lầm, rơi vào chủ quan duy ý chí khi chủ trương muốn nhanh chóng xác lập nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế duy nhất là quốc doanh và tập thể, trong khi trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất chưa cho phép. Hậu quả là chủ trương ấy đã làm cho nền kinh tế của Việt Nam rơi vào trì trệ, khủng hoảng, đời sống của Nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Song chính nhờ kiên định với những mục tiêu của CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời đổi mới. Kiên định CNXH xét đến cùng là kiên định thực hiện tất cả quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, đây chính là động lực thôi thúc Đảng Cộng sản Việt Nam tìm tòi, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, quan tâm lắng nghe ý kiến của Nhân dân, nhờ đó đã kịp thời đổi mới. Có thể nói, nếu không thực sự là một đảng chân chính, cách mạng, không kiên định với những mục tiêu của CNXH, không lắng nghe và tôn trọng ý kiến của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam khó có thể kịp thời có những đổi mới và khắc phục những sai lầm khuyết điểm.
Đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đều đã tiến hành công cuộc cải cách, cải tổ, đổi mới. Song khi tiến hành cải tổ, cải cách, nhiều Đảng Cộng sản ở các nước đã mắc những sai lầm nghiêm trọng, đưa CNXH rơi vào khủng hoảng, sụp đổ. Khác với nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định đổi mới không nghĩa là thay đổi bản chất chế độ, xa rời mục tiêu lý tưởng cách mạng, đa nguyên, đa đảng; đổi mới phải trên cơ sở kiên định sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xét đến cùng là kiên định với lựa chọn của Nhân dân Việt Nam về con đường cách mạng giúp họ trở thành những người thực sự làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Những kiên định đó đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam có những đổi mới đúng đắn. Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ, phát huy được tính tích cực và những tiềm năng sáng tạo to lớn trong Nhân dân, đưa đất nước phát triển đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội. Những thành tựu đó cho thấy, con đường đi lên CNXH của Nhân dân Việt Nam “là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”3.
4. Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục là sự lựa chọn của chính Nhân dân Việt Nam hiện nay
a. Với Nhân dân Việt Nam, lựa chọn con đường quá độ đi lên CNXH là tiếp tục lựa chọn sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Ngày từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành Đảng duy nhất giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và toàn xã hội. Song như thế không có nghĩa là Đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận, tự phong cho mình vai trò lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội xét đến cùng là do Đảng được quần chúng nhân dân tin tưởng trao cho. Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất thể hiện ý chí nguyện vọng của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013 đều khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sự tin tưởng lựa chọn và trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam vai trò lãnh đạo không chỉ thể hiện trong các bản Hiến pháp mà còn được thể hiện thông qua việc Nhân dân đồng thuận và tích cực tham gia thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, là đội tiên phong và là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là đấu tranh cho độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, có trách nhiệm trước Nhân dân về các quyết định của mình. Đảng tổ chức, hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, đoàn kết thống nhất, tự phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với Nhân dân, kỷ luật nghiêm minh và tự giác, tôn trọng Hiến pháp, pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng chủ trương, đường lối; bằng công tác tổ chức, cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát; sự gương mẫu của đảng viên… Nhân dân Việt Nam tin tưởng và trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam vai trò lãnh đạo là xuất phát từ bản chất, mục tiêu lý tưởng của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng.
CNXH là xã hội mà ở đó tất cả quyền lực phải thực sự thuộc về Nhân dân, Nhà nước là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nhân dân chỉ có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc khi họ thực sự trở thành những người làm chủ xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở bảo đảm tất cả quyền lực trong xã hội thuộc về Nhân dân. Với bản chất, mục tiêu lý tưởng cách mạng, nguyên tắc tổ chức hoạt động và các phương thức lãnh đạo như đã nêu, sự lãnh đạo của Đảng là cơ sở để từ đó có thể xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam không dừng lại ở phát hiện và xử lý kịp thời những cán bộ thoái hóa biến chất, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí mà còn quan tâm lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng công khai, minh bạch, xây dựng chính phủ số, xã hội số, nâng cao trình độ nhận thức của Nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi để Nhân dân tham gia các công việc quản lý nhà nước, giám sát thực thi quyền lực nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức.
Thực tế cho thấy, dân chủ không có nghĩa là đa nguyên, đa đảng. Dân chủ trong xã hội phụ thuộc rất nhiều vào bản chất của các đảng chính trị, đặc biệt là đảng chính trị cầm quyền. Với trình độ hiểu biết ngày càng cao, Nhân dân Việt Nam ý thức được rằng, trong điều kiện Việt Nam, đa nguyên, đa đảng chỉ tạo điều kiện cho các thế lực thù địch, phản động nổi lên chống phá cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ không phải dừng lại ở việc người dân được nói những điều gì mà quan trọng là những điều họ nói được quan tâm lắng nghe, tiếp thu, giải trình, được tôn trọng và quan trọng hơn nữa là họ phải được hưởng những lợi ích sao cho xứng đáng với tư cách của những người làm chủ đất nước.
Nhân dân không được hưởng một cách xứng đáng những gì mà họ làm ra, bị áp bức bóc lột thì tất cả những gì nói về dân chủ chỉ là mị dân và giả hiệu. Nhân dân tiếp tục tin tưởng và trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam quyền lãnh đạo là bởi vì Đảng luôn quan tâm đến thực thi dân chủ trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”4.
b. Lựa chọn con đường quá độ đi lên CNXH của Nhân dân Việt Nam là gắn với việc tiếp tục lựa chọn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam tất yếu phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước. Trong các thành phần kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”, “là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động”, “cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng”5.
Chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhằm giải phóng mọi nguồn lực trong xã hội và những tiềm năng sáng tạo trong Nhân dân, thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, để phát triển kinh tế, bản thân người dân cũng nhận thấy không thể chỉ dựa vào Nhà nước. Để vượt qua đói nghèo, nâng cao được đời sống vật chất và tinh thần, vươn lên trở thành giàu có góp phần xây dựng đất nước, người dân và các doanh nghiệp mong muốn được tự do sản xuất kinh doanh, tự tạo ra việc làm, tất nhiên là trong phạm vi pháp luật không cấm. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng nhất, là chủ trương phù hợp với điều kiện khách quan của đất nước và đó cũng chính là nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân.
Với Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường là gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành phần kinh tế bình đẳng, được tự do sản xuất kinh doanh trong phạm vi pháp luật không cấm. Trong các thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước được quan tâm phát triển ở những ngành, những lĩnh vực phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế, là công cụ, lực lượng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Nhà nước quan tâm xây dựng, hoàn thiện về thể chế, chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch để các thành phần kinh tế phát triển, cạnh tranh lành mạnh, “điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống Nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh”6.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, giáo dục, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, tạo điều kiện để mọi người dân được phát triển toàn diện cá nhân, “có cơ hội được thụ hưởng công bằng thành quả của giáo dục”7, được bảo đảm an sinh xã hội và “những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của Nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm”8. Phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, bảo đảm an sinh xã hội, mọi người dân đều có cơ hội phát triển, học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được nâng lên là mục tiêu và là động lực của phát triển kinh tế. Chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với quan tâm phát triển văn hóa, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và có khả năng mang lại cho mọi người dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
5. Kết luận
Quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam là quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam, vì đó chính là sự lựa chọn của Nhân dân Việt Nam. Lựa chọn quá độ đi lên CNXH của Nhân dân Việt Nam gắn liền với sự lựa chọn và trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế gắn với quan tâm phát triển văn hóa, con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, giữ vững quốc phòng – an ninh. Nhân dân Việt Nam đã và sẽ tiếp tục lựa chọn con đường quá độ đi lên CNXH, vì đây là con đường giúp Nhân dân Việt Nam trở thành những người thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Lựa chọn của Nhân dân Việt Nam cũng là cơ sở, động lực, đòi hỏi Đảng ta quan tâm tự xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và chiến đấu, luôn giữ vững bản chất cách mạng, để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 30.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 40.
3, 4, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị Quốc gia sự thật, tr. 26, 28, 131, 137, 149.
5. Bộ Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân – động lực mới phát triển kinh tế. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/05/11/thuc-day-phat-trien-manh-me-kinh-te-tu-nhan-dong-luc-moi-phat-trien-kinh-te/