TS. Phạm Văn Hậu
Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Hiện nay, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta. Mặc dù sử dụng các thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt nhưng chúng thường vi phạm nguyên tắc lịch sử – cụ thể để đánh tráo khái niệm, cắt ghép vô nguyên tắc tư tưởng của Người. Do đó nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần quán triệt và tuân thủ nguyên tắc lịch sử – cụ thể.
Từ khóa: Tính lịch sử – cụ thể, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác, sai trái, thù địch.
1. Tính tất yếu bảo đảm tính lịch sử – cụ thể trong nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Tính lịch sử – cụ thể là một nguyên tắc căn bản của phép biện chứng duy vật, bảo đảm cho mỗi chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn, khách quan, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh, tránh chung chung, trừu tượng, giáo điều, dập khuôn, máy móc. Bởi vì, cùng một sự vật, hiện tượng, nếu đặt nó trong mối liên hệ khác nhau, trong không gian, thời gian khác nhau, sự vật đó sẽ biểu hiện khác nhau. Chính vì vậy, theo V.I.Lênin “không có chân lý trừu tượng, rằng chân lý luôn luôn là cụ thể”1. Phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác. Vì vậy, để hiểu đúng bản chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng, cải tạo nó có hiệu quả, chủ thể phải đặt nó trong mối liên hệ cụ thể, trong không gian, thời gian cụ thể. Nói cách khác, để nhận thức và cải tạo thế giới có hiệu quả chủ thể phải tuân thủ tính lịch sử – cụ thể.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc. Một trong các thủ đoạn đó là chúng cố tình vi phạm tính lịch sử – cụ thể để đánh tráo khái niệm, xuyên tạc bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh và quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta.
Tuân thủ tính lịch sử – cụ thể là nguyên tắc căn bản, yêu cầu tất yếu trong nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Có tuân thủ tính cụ thể chúng ta mới hiểu đúng bản chất, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn đất nước trong từng giai đoạn lịch sử; tránh khuynh hướng máy móc, giáo điều, suy diễn chủ quan, đơn giản hóa tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, thấy rõ tính phi lịch sử, phi logic, chủ quan, cắt ghép vô nguyên tắc tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch; có luận cứ, luận chứng khoa học, xác đáng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ vững chắc tư tưởng của Người.
Tính lịch sử – cụ thể đó được thể hiện, như sau:
Thứ nhất, trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát những vấn đề rộng lớn, đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Mặc dù các tư tưởng của Người được tổng hợp, đúc rút, mang tính khái quát cao, song đều được thể hiện trong các bài nói, bài viết, trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Các bài nói, bài viết và các hoạt động đều có cơ sở lý luận và thực tiễn, gắn với sự kiện cụ thể, cho các đối tượng cụ thể, mục đích cụ thể, phương pháp, phương tiện cụ thể… Vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng của Người phải thấy rõ nội dung cốt lõi, cơ sở lý luận, bối cảnh, mục đích, đối tượng truyền đạt, mối liên hệ của tư tưởng trong bài nói, bài viết đó với bài nói, bài viết khác và để hiểu xuyên suốt, thấu đáo tư tưởng ấy.
Thứ hai, trong vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn gắn kết chặt chẽ với nhau, trên cơ sở phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cách mạng. Trước hết, tư tưởng của Hồ Chí Minh rất rộng, khái quát, mang tính định hướng, khi vận dụng chủ thể phải vận dụng cho sát với tình hình cụ thể, bối cảnh cụ thể của đất nước và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, tư tưởng của Người được thể hiện trong các bài viết, bài nói, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo từng nhiệm vụ cách mạng cụ thể, trong hoàn cảnh cụ thể. Để vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người, chủ thể phải hiểu rõ thực chất của tư tưởng; bối cảnh, hoàn cảnh, tổ chức, con người thực hiện… từ đó, căn cứ vào bối cảnh, hoàn cảnh, con người hiện tại để cụ thể hóa cho phù hợp. Hơn nữa, thực tiễn luôn vận động, phát triển không ngừng, có những vấn đề thực tiễn nảy sinh, tư tưởng của Người chưa bàn đến hoặc bàn đến nhưng chưa thấu đáo, chưa đầy đủ; hoặc xuất hiện bối cảnh mới, chúng ta phải vận dụng và phát triển linh hoạt, sáng tạo phù hợp với bối cảnh cụ thể của thực tiễn, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Thứ ba, trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch thường vi phạm tính lịch sử – cụ thể để xuyên tác, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Các luận điệu chúng thường sử dụng, như: “Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng, không có tư tưởng Hồ Chí Minh”. Thực chất những luận điệu này là tách rời tư tưởng với hoạt động thực tiễn của Người. Tư tưởng của Hồ Chí Minh thể hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Mặc dù không có những tác phẩm chuyên biệt bàn về lý luận, nhưng toàn bộ bài nói, bài viết, sự lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn các nhiệm vụ cách mạng đã thể hiện rõ tư tưởng của Người.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã được chứng minh và khẳng định. Theo tổ chức UNESCO: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”2. Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững chắc điều này. Vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải gắn thấy được tính lịch sử, cụ thể và tính logic, phải thấy được mối liên hệ giữa bài nói, bài viết với sự lãnh đạo, chỉ đạo, giữa lời nói với việc làm của Người.
Các thế lực thù địch cũng thường âm mưu tách rời, hoặc đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin; hoặc “tôn vinh” tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Luận điệu này rõ ràng vi phạm tính lịch sử – cụ thể. Chủ nghĩa Mác – Lênin chính là nguồn gốc quan trọng, quyết định sự thay đổi lập trường cách mạng, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh. Tinh thần biện chứng, tính cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin chính là cơ sở, nền tảng xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện lịch sử Việt Nam. Vì vậy, mọi tư tưởng tách rời, đề cao hoặc hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin là phiến diện, chủ quan, rơi vào hư vô chủ nghĩa. Cảnh giác với các quan điểm sai trái, phản động này, chúng ta phải nghiên cứu rõ lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng của Hồ Chí Minh, thấy sự sáng tạo của Người trong vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử cụ thể.
Các thế lực thù địch, phản động luôn có tư tưởng phủ nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay; hoặc cố tình cắt ghép câu nói, câu trích của Người vào các bối cảnh lịch sử khác nhau để biện hộ cho những luận điểm sai trái; thậm chí chúng kết hợp xuyên tạc tư tưởng của Người với bôi nhọ, nói xấu làm mất hình ảnh nhằm hạ bệ thần tượng, làm hoang mang dư luận, nghi ngờ, phủ nhận tư tưởng của Người… Sự thật là tư tưởng Hồ Chí Minh đã được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước nghiên cứu, có giá trị thực tiễn và ý nghĩa lớn lao với cách mạng Việt Nam, đóng góp vào sự phát triển lý luận Mác – Lênin. Thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã chứng minh “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong Thế kỷ XX, mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai”3.
Do đó, để phản bác các quan điểm sai trái thù địch cần nhận thức sâu sắc quá trình Hồ Chí Minh nghiên cứu,vận dụng, phát triển sáng tạo cả về lý luận và thực tiễn cho kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua đó chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh chính là tấm gương vận dụng nguyên tắc lịch sử – cụ thể trong nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Một số yêu cầu bảo đảm tính lịch sử – cụ thể trong nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay
Một là, phải luôn kiên định với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây vừa là yêu cầu quan trọng, có ý nghĩa quyết định, vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc để vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng của Người, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chỉ có trên cơ sở trung thành và kiên định với tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta mới có nền tảng đúng đắn, kim chỉ nam định hướng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là điều kiện tất yếu bảo đảm cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện đường đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bài học kinh nghiệm đầu tiên, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải luôn kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”4.
Hai là, cần nghiên cứu toàn diện, sâu sắc để nắm được lịch sử, bản chất, đặc điểm và giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Có hiểu biết sâu sắc và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta mới vận dụng sáng tạo trong thực tiễn và đấu tranh thuyết phục, có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận tư tư tưởng của Người. Để hiểu thấu đáo tư tưởng của Người, không có cách nào khác ngoài nghiên cứu thật kỹ các tác phẩm lý luận và hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hơn sáu thập kỷ hoạt động cách mạng.
Trong những năm vừa qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, ngày 18/5/2021, Bộ Chính trị (khóa XII) Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây là nội dung, hình thức, biện pháp quan trọng để giáo dục, tuyên truyền sâu rộng tư tưởng của Người. Chúng ta cần giữ vững và lan tỏa tinh thần đó trong toàn dân và bạn bè quốc tế. Trong đó, đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa học cần nghiên cứu sâu sắc di sản của Người để tuyên truyền cho Nhân dân hiểu rõ sự hình thành, quá trình phát triển, nội dung, biểu hiện và giá trị của tư tưởng ấy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đồng thời, tham mưu cho Đảng, Nhà nước vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
Ba là, phải thường xuyên nắm, dự báo sát, đúng tình hình đất nước, khu vực và thế giới để vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Công tác dự báo là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong mọi giai đoạn của sự nghiệp cách mạng. Mục đích công tác dự báo là nghiên cứu, đánh giá, tiên lượng từ sớm, từ xa các biến động, các yêu cầu phát triển của thực tiễn. Kết quả dự báo cung cấp hệ thống luận cứ khoa học làm cơ sở để Đảng vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đường lối, chủ trương lãnh đạo phù hợp với sự vận động, phát triển tình hình đất nước, khu vực, quốc tế và thời đại trong từng giai đoạn. Quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cần bám chắc vào lý luận, nguyên tắc chung; đồng thời, mạnh dạn, linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết từng vấn đề cụ thể phù hợp với sự vận động của thực tiễn; phải luôn tìm tòi những giải pháp đặc thù, sát với khả năng, điều kiện của đất nước, khu vực, quốc tế và thời đại trong từng giai đoạn lịch sử.
Bốn là, phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch.
Trước hết, chúng ta cần nhận thức rõ rằng đấu tranh tư tưởng, lý luận là tất yếu khách quan trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào. Các thế lực thù địch sẽ không từ thủ đoạn nào, thậm chí sử dụng các biện pháp ngày càng tinh vi, thâm hiểm để xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ trọng yếu, xuyên suốt, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đó là nhiệm vụ phải tiến hành thường xuyên, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới đã khẳng định: Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị – xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.
Do đó, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cả hệ thống chính trị phải thật sự cảnh giác, tỉnh táo, thận trọng, sáng suốt và nhạy bén để nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kiên quyết, kiên trì, phát huy sức mạnh tổng hợp để đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm sai trái; bảo vệ, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, để tư tưởng của Người mãi là nền tảng tư tưởng của Đảng, là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.
3. Kết luận
Đảng ta xác định đấu tranh tư tưởng, lý luận là tất yếu khách quan, liên quan đến sự mất còn của chế độ. Các thế lực thù địch không ngừng thay đổi nội dung, hình thức, phương pháp ngày càng tinh vi, xảo quyệt để phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh và quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta. Mặc dù được che đậy rất tinh vi, xong các luận điệu của các thế lực thù địch thường vi phạm nguyên tắc lịch sử – cụ thể. Vì vậy, các luận điệu đó thường thiếu cơ sở, không nhất quán, sai bản chất, không đúng với thực tiễn. Trước những luận điệu sai trái đó, chúng ta phải tỉnh táo, nắm vững các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác – Lênin để tìm hiểu, đấu tranh, phản bác; nhất là bám sát nguyên tắc lịch sử – cụ thể để vạch rõ sai lầm, từ đó có luận cứ, luận chứng khoa khọc, cụ thể, chính xác đấu tranh thuyết phục, phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch.
Chú thích:
1. V.I.Lênin Toàn tập (2006). Tập 42. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 364.
2. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 301.
3. Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/bac-bo-nhung-luan-dieu-xuyen-tac-phu-nhan-gia-tri-tu-tuong-ho-chi-minh-723017, ngày 07/02/2025.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr 33.



