Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở Việt Nam hiện nay

NCS. Kiều Thị Yến
Học viện Ngân hàng

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân là nguyên tắc trung tâm và được bảo đảm bằng cơ chế thực thi hiệu quả. Thực tế, quyền làm chủ của Nhân dân tiếp tục được mở rộng nhưng vẫn còn những hạn chế trong thiết chế dân chủ và quản lý. Vì vậy, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là kim chỉ nam có ý nghĩa định hướng quan trọng. Bài viết tập trung phân tích ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong bối cảnh hiện nay.

Từ khóa: Cơ chế, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ý nghĩa, phát huy, quyền làm chủ, Nhân dân.

1. Đặt vấn đề

Trong tiến trình đổi mới đất nước, việc phát huy dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân luôn được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm vụ trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững của chế độ. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân đặt ra đòi hỏi phải bảo đảm để mọi quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân và được Nhân dân thực hiện thông qua những cơ chế hữu hiệu, công khai và minh bạch.

Thực tiễn cho thấy, mặc dù quyền làm chủ của Nhân dân đã được khẳng định rõ trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật, song việc hiện thực hóa quyền lực này trong đời sống chính trị – xã hội vẫn còn gặp không ít khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc thiếu các cơ chế cụ thể hoặc cơ chế hiện hành chưa thật sự phát huy hiệu quả, khiến tiếng nói, nguyện vọng và quyền tham gia của Nhân dân chưa được thể hiện đầy đủ. Điều này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu sâu hơn về nền tảng tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò chủ thể của Nhân dân và đề xuất những nguyên tắc, phương thức, mô hình bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong bối cảnh mới.

Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân mang ý nghĩa lý luận quan trọng, góp phần soi sáng cơ sở tư tưởng cho quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, giúp xác định phương hướng, giải pháp nhằm phát huy dân chủ, tăng cường sự tham gia của Nhân dân vào quản lý nhà nước và đời sống xã hội trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước đang đẩy mạnh cải cách thể chế, hiện đại hóa bộ máy nhà nước và hội nhập sâu rộng.

2. Ý nghĩa lý luận

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân là sự kế thừa và phát huy các tư tưởng tiến bộ trên thế giới về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong điều kiện Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân là kết quả của quá trình kế thừa, tiếp thu các tư tưởng tiến bộ về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thấm nhuần tinh hoa văn hóa dân tộc mà còn chọn lọc, kế thừa và phát triển sáng tạo nhiều giá trị tư tưởng dân chủ phương Tây về tự do, bình đẳng, bác ái, coi đó là những giá trị nhân loại có thể phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ đó, vận dụng và phát triển các giá trị ấy thành nền tảng tư tưởng cho quyền tự quyết dân tộc và nền dân chủ Nhân dân Việt Nam, trong đó, dân chủ gắn liền với độc lập, tự do và hạnh phúc của Nhân dân. Đây chính là điểm khác biệt căn bản giữa tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh với các mô hình dân chủ tư sản, một sự phát triển mang tính sáng tạo và cách mạng, phản ánh tầm vóc và tư duy chính trị độc lập của Người.

Khi nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu cách mạng tháng Mười Nga, tìm hiểu về mô hình Nhà nước Xô Viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy, Nhân dân ở đây là chủ thể của cuộc cách mạng, họ thực sự được làm chủ, được hưởng mọi quyền tự do dân chủ. Quyền lợi và nghĩa vụ luôn song hành trong quá trình làm chủ của người dân Xô Viết. Mô hình và hiện thực xã hội đó chứa đựng và định hướng mục tiêu cao nhất của cách mạng, đó là quyền làm chủ của Nhân dân. Người nhận thức sâu sắc, quyền lực nhà nước chỉ thực sự có ý nghĩa nếu thuộc về Nhân dân, phục vụ lợi ích và nguyện vọng của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển nguyên lý chuyên chính vô sản thành mô hình nhà nước kiểu mới – Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính độc lập, tự chủ và sáng tạo, luôn học hỏi nhưng không sao chép mà việt hóa mọi giá trị tư tưởng phù hợp với thực tiễn dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tạo nên một di sản văn hóa – chính trị đặc sắc, hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại.

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân góp phần xây dựng và phát triển tư tưởng về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân ở Việt Nam.

Trong toàn bộ di sản tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ các bài tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc đến những quan điểm về Nhà nước, Hiến pháp, pháp luật, về Đảng và đội ngũ cán bộ đều thể hiện một lập trường nhất quán về bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiện thực hóa tư tưởng quyền làm chủ của Nhân dân trong mô hình Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một mô hình kết hợp hài hòa giữa giá trị dân chủ phổ quát của phương Tây và truyền thống trị quốc “lấy dân làm gốc” của phương Đông, đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là một mô hình chính thể dân chủ Nhân dân, trong đó, quyền lực thống nhất thuộc về Nhân dân, được tổ chức và vận hành nhằm phục vụ lợi ích và nguyện vọng của Nhân dân.

Nhân dân giữ vị trí chủ thể tối cao của quyền lực, thực hiện quyền làm chủ thông qua việc bầu cử, phúc quyết Hiến pháp và các vấn đề trọng đại của quốc gia; đồng thời có quyền kiểm tra, giám sát, phê bình, khiếu nại, tố cáo, bãi miễn đại biểu dân cử và được bảo đảm các quyền tự do cơ bản. Tư tưởng đó không chỉ phản ánh khát vọng cháy bỏng của Nhân dân mà còn là niềm ước ao của các dân tộc trên hành trình tìm kiếm tự do, quyền làm chủ vận mệnh được “là chủ và làm chủ” trong một đất nước có độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trăn trở với câu hỏi Nhân dân được hưởng những quyền gì mà còn quan tâm sâu sắc đến cách thức để Nhân dân có thể thực hiện quyền làm chủ ấy trong đời sống thực tiễn. Mặc dù nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong điều kiện vô cùng khó khăn, “thù trong giặc ngoài” nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu vẫn nỗ lực thiết lập những trình tự, thủ tục và bước đi cụ thể để bảo đảm quyền làm chủ cho Nhân dân. Tư tưởng đó để lại những bài học sâu sắc về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ngay trong những hoàn cảnh gian khó nhất của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm huyết cho việc xây dựng các điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trở thành hiện thực: từ việc quan tâm xây dựng Hiến pháp và pháp luật đến xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, đặc biệt là chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài và nâng cao năng lực làm chủ của Nhân dân. Với mong muốn dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho Nhân dân, Người đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước xây dựng Nhà nước và cơ chế thực hiện quyền làm chủ phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, thể hiện rõ bản chất dân chủ, nhân văn và tiến bộ trong tư tưởng chính trị của Người.

Trong bối cảnh thế giới hiện nay có nhiều diễn biến hết sức phức tạp, quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ. Đồng thời, sự phân hóa giàu, nghèo tiếp tục gia tăng, chủ nghĩa dân túy, chiến tranh, xung đột và khủng hoảng niềm tin vào các thiết chế dân chủ ở một số quốc gia ngày càng rõ nét. Các hình thức dân chủ từng được xem là khuôn mẫu phổ quát đang bộc lộ nhiều hạn chế trong việc bảo đảm quyền làm chủ thực chất của Nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân tiếp tục giữ nguyên ý nghĩa định hướng, bởi Người không chỉ khẳng định vai trò chủ thể tối cao của Nhân dân mà còn nhấn mạnh yêu cầu tổ chức thực tiễn quyền lực của Nhân dân thông qua Hiến pháp, hệ thống pháp luật, các thiết chế dân chủ và đội ngũ cán bộ, công chức phục vụ Nhân dân.

2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân có ý nghĩa trong việc hoàn thiện lý luận về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong vai trò lãnh đạo thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.

Trong tư tưởng của Người, quyền lực thuộc về Nhân dân không phải là khẩu hiệu chính trị mà là nguyên tắc tổ chức căn bản của chế độ xã hội mới. Để quyền làm chủ của Nhân dân trở thành hiện thực cần có cơ chế vận hành đồng bộ, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý, còn Nhân dân là chủ thể của quyền lực, trực tiếp tham gia, kiểm soát và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là những nội dung cốt lõi đặt nền móng cho việc hình thành mối quan hệ gắn kết giữa Đảng với Nhân dân, qua đó xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh trong vai trò lãnh đạo thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân.

Từ nền tảng tư tưởng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và phát triển thành quan điểm lý luận có tính hệ thống về cơ chế thực hiện quyền lực chính trị, được khái quát thành: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Quan điểm này được thể hiện từng bước qua các kỳ Đại hội. Đại hội VI (1986) khẳng định tư tưởng “lấy dân làm gốc”, phát huy quyền làm chủ tập thể của Nhân dân lao động; Đại hội VII (1991) lần đầu xác lập trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội rằng: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân”; Đại hội VIII (1996) cụ thể hóa bằng chủ trương “xây dựng cơ chế thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”và đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011): Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ được nêu đầy đủ, trở thành nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị, được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013.

2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định quyền lực nhà nước bắt nguồn từ Nhân dân và phải được tổ chức, vận hành nhằm phục vụ Nhân dân. Người nhấn mạnh: Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân. Tư tưởng ấy khẳng định một nguyên tắc có tính nền tảng: quyền làm chủ của Nhân dân là bản chất của dân chủ XHCN và là cơ sở chính trị pháp lý của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra yêu cầu tổ chức quyền lực nhà nước phải thống nhất, song phải có cơ chế kiểm soát để ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực. Người đòi hỏi các cơ quan nhà nước, từ trung ương đến địa phương, phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, chịu sự giám sát của Nhân dân, thường xuyên chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Những chỉ dẫn này thể hiện tầm nhìn lý luận sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, Nhà nước thượng tôn pháp luật, có cơ chế kiểm soát quyền lực, đề cao pháp luật cũng như trách nhiệm công vụ, kết hợp hài hòa giữa pháp quyền nhân nghĩa. Từ tinh thần “dân vi bản”, đề cao đạo lý nhân nghĩa, coi trọng đạo đức và trách nhiệm của người cầm quyền trong văn hóa phương Đông tới văn hóa phương Tây, khi Người chọn lọc những giá trị về dân chủ, pháp quyền và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hòa giữa truyền thống chính trị, đạo đức phương Đông và tư tưởng dân chủ, pháp quyền phương Tây, hình thành nên quan niệm đặc sắc về Nhà nước của dân, do dân và vì dân trong điều kiện Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quan điểm này tiếp tục được cụ thể hóa trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, khi xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thể hiện ở việc không ngừng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, phát huy dân chủ gắn với kỷ cương, bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân và phục vụ Nhân dân.

3. Ý nghĩa thực tiễn

3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân là cơ sở để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối chính trị phục vụ Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân thể hiện ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, là cơ sở quan trọng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối chính trị của dân, do dân và vì dân. Đảng luôn nhất quán xác định nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, trong đó mọi quyền hành đều thuộc về Nhân dân. Trên tinh thần đó, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều đặt lợi ích, nguyện vọng của Nhân dân lên hàng đầu, coi đó là thước đo cho tính đúng đắn và hiệu quả của sự lãnh đạo chính trị.

Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là một bộ phận của giai cấp nhất định như trong nền dân chủ tư sản mà là toàn thể con dân đất Việt, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, giới tính, độ tuổi hay địa vị xã hội. Đảng là Đảng của Nhân dân lao động, luôn lấy lợi ích của Nhân dân làm tôn chỉ và mục đích hoạt động, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân.

Ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân được khẳng định sâu sắc hơn, là cơ sở quan trọng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối dân chủ, coi bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

Qua các kỳ Đại hội, Đảng luôn xác định rõ mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và đến Đại hội XIII, tiếp tục khẳng định: dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân là một trong những mục tiêu trọng tâm của phương hướng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của công cuộc đổi mới, bởi chế độ dân chủ khẳng định mọi sức mạnh, mọi nguồn lực đều bắt nguồn từ Nhân dân. Khi quyền làm chủ của Nhân dân được phát huy sẽ hình thành những điều kiện, nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân còn tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho đổi mới chính trị, thúc đẩy xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nâng cao năng lực giám sát của các tổ chức chính trị – xã hội. Qua đó, cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân góp phần hoàn thiện công tác cán bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát của hệ thống chính trị trước Nhân dân, đồng thời củng cố niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN Việt Nam.

3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở xây dựng và hoàn thiện thể chế, thiết chế, xây dựng cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân.

Quá trình xây dựng thể chế, thiết chế, cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân có lịch sử hình thành và phát triển gắn chặt với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa, lịch sử trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong đó, Đảng và Nhà nước đã có sự học tập và kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện thể chế, thiết chế, cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Từ sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức sâu sắc được vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội. Người đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến Hội nghị Versailles bản “Yêu sách của Nhân dân An Nam”. Sau này, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển thể nội dung bản yêu sách sang thành “Việt Nam yêu cầu ca” trong đó, yêu sách thứ 7 thành 2 câu thơ: “ Bảy xin Hiến pháp ban hành, trăm đều phải có thần linh pháp quyền”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, là cơ sở để Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thiết chế pháp luật. Sinh thời, Hồ Chí Minh không sử dụng thuật ngữ hệ thống chính trị. Người nói và viết rất nhiều về xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng và củng cố Nhà nước, lực lượng vũ trang, xây dựng các tổ chức, như: mặt trận, thanh niên, phụ nữ… về mối quan hệ giữa các tổ chức đó; về chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đây chính là hệ thống chính trị của Nhân dân, do Nhân dân tổ chức ra một cách hợp pháp nhằm duy trì và bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến việc rèn luyện nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức cách mạng của Đảng cầm quyền với yêu cầu: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”. Nhà nước Hồ Chí Minh hướng tới đó là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Nhà nước phải không ngừng chăm lo cho đời sống của Nhân dân làm cho dân đủ ăn, đủ mặc, ai cũng được học hành.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập nhiều hội, nhóm nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và tổ chức có vai trò tập hợp một cách rộng rãi nhất là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân. Thực tế lịch sử chứng minh vai trò to lớn của Mặt trận trong việc tập hợp, động viên, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như quá trình xây dựng đất nước. Thực tiễn ngày nay cho thấy, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp có nhiều đóng góp đối với quá trình phát triển của đất nước, điều đó một lần nữa tái khẳng định những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn và tiếp tục được Đảng và Nhà nước bổ sung và hoàn thiện trong bối cảnh hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân có ý nghĩa thực tiễn quan trọng là cơ sở để Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong điều kiện mới. Thực tiễn quá trình xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân luôn được Đảng và Nhà nước xác định là đặc trưng, bản chất của chế độ ta.

3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân góp phần nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân.

Trên thực tế, trình độ dân trí của người dân đã có nhiều bước tiến dài, ý thức, trách nhiệm về quyền lợi và nghĩa vụ làm chủ người dân ngày càng được nâng cao và có nhiều tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên, năng lực, ý thức làm chủ của Nhân dân hiện nay ít nhiều còn hạn chế, còn nhiều trường hợp người dân không nắm được những quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Do đó, cần tiếp tục bồi dưỡng trình độ dân trí, văn hóa góp phần bồi dưỡng ý thức và năng lực làm chủ cho Nhân dân. Trong đó, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân trí, nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân vẫn còn vẹn nguyên.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo dục gắn với quan điểm xuyên suốt cần phải xây dựng được con người XHCN. Giáo dục và đào tạo ra một thế hệ vừa hồng, vừa chuyên, hình thành và phát triển kỹ năng tự học suốt đời ở Nhân dân. Mỗi người dân phải hình thành và duy trì được tinh thần và thái độ học tập suốt đời, học tập không chỉ ở kiến thức sách vở mà xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn, học đi đôi với hành, lý luận phải song hành cùng thực tiễn. Cần phải xây dựng ý thức học tập và vươn lên hoàn thiện bản thân của mỗi người dân, ý thức được quyền làm chủ và trách nhiệm làm chủ chính đáng. Chủ động học tập, tiếp thu những cái mới để làm chủ đất nước.

4. Kết luận

Việc phân tích ý nghĩa lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân cho thấy, tư tưởng của Người có giá trị định hướng sâu sắc đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; mọi đường lối, chính sách và hoạt động của bộ máy công quyền phải xuất phát từ lợi ích của Nhân dân và hướng tới phục vụ Nhân dân. Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan phải tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình.

Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế, các giá trị tư tưởng của Người vẫn giữ vai trò soi sáng cho việc thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Những yêu cầu về mở rộng dân chủ, phát huy quyền tham gia, giám sát và phản biện xã hội của Nhân dân ngày càng trở nên cấp thiết, góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đồng thời huy động tối đa sức mạnh Nhân dân vào sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.

Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân không chỉ là nhiệm vụ lý luận cần thiết mà còn là yêu cầu thực tiễn cấp bách. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đồng thời mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ, tinh thần trách nhiệm và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn phát triển mới.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Võ Nguyên Giáp (1997). Bác Hồ với Quốc hội và bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hiến pháp năm 1946, sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia.
5. Vũ Đình Hòe (2001). Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. H. NXB Văn hóa Thông tin – Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
12. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
15. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
16. Nguyễn Phú Trọng (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.