Cục diện Trung Đông hiện nay và gợi ý chính sách đối với Việt Nam

PGS.TS. Lê Phước Minh
Nguyên Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Trung Đông đang trải qua những biến động sâu sắc với sự tái định hình trật tự khu vực bởi cạnh tranh giữa các nước lớn, các thỏa thuận bình thường hóa quan hệ, xung đột tái bùng phát, sự nổi lên của các cường quốc tầm trung; đặc biệt, sự chuyển dịch pháttriển kinh tế theo hướng năng lượng sạch, gia tăng an ninh hàng hải và đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Bối cảnh này tạo ra cả cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam trong hợp tác và nhập quốc tế, mở rộng thị trường và bảo đảm an ninh năng lượng, lương thực. Bài viết phân tích cục diện phát triển Trung Đông hiện nay, ảnh hưởng và tác động của nó đối với đối với môi trường quốc tế. Từ đó, đưa ra các hàm ý chính sách cho Việt Nam để phát triển quan hệ tốt vói Trung Đông trong giai đoạn 2025 – 2035.

Từ khóa: Trung Đông; Việt Nam; chính sách; đối ngoại, cục diện; trật tự khu vực.

1. Đặt vấn đề

Trung Đông từ lâu được xem là “điểm nóng về địa chính trị” của thế giới bởi vị trí chiến lược, nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt dồi dào, cùng mạng lưới xung đột phức tạp kéo dài nhiều thập kỷ. Bước sang thập niên 20 thế kỷ XXI,  khu vực này tiếp tục biến động mạnh với những xu hướng mới,như tái cấu trúc quan hệ giữa các quốc gia Ả Rập và Israel; ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh quyết liệt hơn giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga; sự nổi lên của các cường quốc tầm trung như Thổ Nhĩ Kỳ, UAE, Qatar, Ả Rập Xê út; sự chuyển hướng kinh tế hậu dầu mỏ, chú trọng năng lượng tái tạo, logistics, công nghệ;các cuộc xung đột kéo dài tại Gaza, Yemen, Syria; ảnh hưởng lớn bởi biến động trong thị trường năng lượng toàn cầu.

Bối cảnh biến động này không chỉ tác động đến an ninh – kinh tế khu vực mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều quốc gia phụ thuộc năng lượng và có thị trường xuất khẩu tại Trung Đông, trong đó có Việt Nam. Việc nhận diện đúng cục diện khu vực này sẽ giúp Việt Nam hoạch định chính sách đối ngoại linh hoạt, hiệu quả và phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước ta trong giai đoạn mới.

2. Cục diện Trung Đông hiện nay

Thứ nhất, môi trường địa  chính trị thay đổi mạnh mẽ.

Cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực càng thể hiện đa dạng, Mỹ tiếp tục duy trì ảnh hưởng thông qua “hệ thống liên minh truyền thống” (Israel, Jordan, Ai Cập, Saudi Arabia), căn cứ quân sự và kiểm soát tuyến hàng hải chiến lược. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Mỹ giảm tương đối do chiến lược chuyển trục sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Trong khi đó, Trung Quốc mở rộng sự hiện diện ở Trung Đông thông qua đầu tư vào sáng kiến “Vành đai – Con đường”; tăng cường hợp tác năng lượng; vai trò trung gian hòa giải (điển hình: bình thường hóa quan hệ Saudi Arabia – Iran năm 2023); tiến tới thanh toán dầu khí bằng đồng nhân dân tệ. Bên cạnh đó, Nga tiếp tục hiện diện quân sự tại Syria và hợp tác năng lượng với Iran, Saudi Arabia, UAE, Qatar; đồng thời, sử dụng Trung Đông như một sân chơi để đối trọng với phương Tây.

Các cường quốc tầm trung khẳng định vị thế và vai trò gia tăng của mình trong khu vực. Trật tự khu vực không còn bị chi phối hoàn toàn bởi Mỹ; thay vào đó các cường quốc tầm trung đang chiếm lĩnh không gian chiến lược, như Saudi Arabia đang cải cách mạnh mẽ nền kinh tế với tầm nhìn Vision 2030, mở rộng vai trò năng lượng và đầu tư; UAE trở thành trung tâm tài chính – logistics – công nghệ toàn cầu; Qatar trở thành cường quốc khí hóa lỏng; Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng ảnh hưởng tại Libya, Syria, Đông Địa Trung Hải; Iran tiếp tục duy trì mạng lưới lực lượng ủy nhiệm tại Syria, Iraq, Yemen, Lebanon. Sự nổi lên của các chủ thể mới tại Trung Đông khiến cấu trúc quyền lực phân tán hơn, khó dự đoán hơn và gia tăng cạnh tranh.

Thứ hai, những xung đột kéo dài và tác động khó lường trong khu vực.

Cuộc xung đột Israel – Palestine và chiến sự tại Gaza tiếp tục gia tăng và phức tạp. Cuộc chiến tại Gaza sau năm 2023 làm trầm trọng tình hình an ninh khu vực, đẩy lui tiến trình bình thường hóa quan hệ Israel – Saudi Arabia, tác động mạnh đến thị trường năng lượng và các tuyến vận tải biển, đặc biệt là Biển Đỏ. Tác động của cuộc chiến Gaza đối với trật tự khu vực và thế giới đã làm cho an ninh hàng hải Biển Đỏ, tuyến thương mại vận chuyển hàng hóa toàn cầu, trở thành khu vực rủi ro cao từ năm2024; ảnh hưởng đến giá dầu, làm ảnh hưởng trực tiếp các nền kinh tế nhập khẩu nhiên liệu, bao gồm Việt Nam; kế hoạch bình thường hóa Saudi Arabia – Israel bị đình trệ đến nay; Iran tăng cường vai tròảnh hưởng qua Hezbollah, Houthi và các lực lượng vũ trang trong khu vực.

Xung đột Israel – Palestine và chiến sự tại Gaza tác động lớn tới an ninh năng lượng toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Để bảo đảm an ninh năng lượng, Việt Nam phải đối mặt với thiếu hụt nhập khíhóa lỏng dài hạn với Qatar, UAE; nguy cỡ bị vỡ tuyến vận tải qua Biển Đỏ; ứng phó biến động giá dầu; đa dạng hóa thị trường để giảm rủi ro từ bất ổn khu vực.

Bất ổn tại Yemen, Syria và Iraq luôn đe dọa bất ổn tại khu vực. Cuộc chiến Yemen giữa chính phủ và lực lượng Houthi kéo dài gần một thập kỷ. Sự leo thang tại Biển Đỏ (Houthi tấn công tàu thương mại) ảnh hưởng nghiêm trọng tới vận tải biển toàn cầu và doanh thu từ kênh đào Suez của Ai Cập.Tình hình Syria chưa có giải pháp chính trị lâu dài. Iraq tiếp tục đối mặt với chia rẽ sắc tộc -tôn giáo, khôi phục kinh tế chậm chạp và chịu ảnh hưởng mạnh của Iran.

Thứ ba, biến động thị trường năng lượng.

Trung Đông sở hữu trữ lượng dầu mỏ và khí đốt khổng lồ, có vai trò quan trọng đối với an ninh năng lượng toàn cầu, với 48,4% trữ lượng dầu mỏ toàn cầu cùng chỉ số dực trữ/sản xuất (R/P ratio) đạt 72,1năm, sản xuất 33,3% sản lượng và chiếm trên 38,5% số lượng dầu mỏ xuất khẩu toàn thế giới (năm 2018); nắm giữ 38,4% tổng trữ lượng khí đốt toàn cầu với chỉ số dự trữ/sản xuất (R/) ratio) 109,9 năm, sản xuất hơn 17,8 số lượng khí đốt của thế giới năm 20181. Mọi điều chỉnh chính sách liên quan đến sản xuất, giá cả dầu mỏ cũng như những biến động chính trị của các nước khu vực Trung Đông đều có ảnh hưởng sâu sắc đến thị trường năng lượng thế giới2. Theo Công ty cổ phần Tin học viễn thông Petrolimex (PIACOM – thành viên của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam), trong giai đoạn 2020 – 2024, Việt Nam nhập khẩu hơn 100 triệu tấn dầu khí, trong đó, 88% lượng dầu nhập khẩu của Việt Nam đến từ Kuwait3.

Thứ tư, xu hướng kinh tế  thương mại mới.

Các xu hướng phát triển kinh tế thương mại của các nước Trung Đông trở nên đa dạng. Đó là tính đa dạng hóa kinh tế hậu dầu mỏ, nhiều quốc gia Trung Đông đẩy mạnh đa dạng hóa mô hình kinh tế hướng tới logistics, hàng không, công nghệ, tài chính – ngân hàng, du lịch năm sao và đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực này mở rộng các “quỹ tài sản quốc gia” (sovereign wealth funds) như Saudi Arabia ( với quỹ PIF), Qatar (với quỹ QIA), UAE (với quỹ ADIA, Mubadala). Các quỹ này tăng đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt vào hạ tầng, công nghệ cao, năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, nhu cầu xu hướng thu hút lao động nước ngoài vào rất mạnh mẽ, với lực lượng lớn lao động trongcác ngành xây dựng, y tế, công nghệ thông tin, dịch vụ. Thương mại Halal mở rộng với giá trị thị trường toàn cầu đạt hơn 2,3 nghìn tỷ USD trong năm 2024 và dự báo vượt 3 nghìn tỷ USD vào năm 20304. Các xu hướng này tạo ra thách thức và cơ hội mới cho Việt Nam quan hệ, hợp tác với các quốc gia trong khu vực. 

3. Tác động của cục diện Trung Đông đối với Việt Nam

Thứ nhất, đối với an ninh năng lượng Việt Nam.

Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, về an ninh năng lượng, Việt Nam chịu ảnh hưởng khá lớn từ Trung Đông, trong đó lượng dầu thô nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu đến từ Kuwait (chiếm 88% tổng lượng dầu thô nhập khẩu). Hiện Việt Nam nhập nhiều khí hoá lỏng cho các nhà máy điện khí, nguyên liệu cho hoá dầu và lọc dầu Dung Quất, Nghi Sơn, trong đó, Việt Nam nhập khẩu khí đốt hoá lỏng nhiều nhất từ 3 thị trường: Qartar, Saudi Arabia và UAE với trị giá gần 890 triệu USD5. Do vậy, mọi biến động địa – chính trị tại Trung Đông đều tác động trực tiếp và ngay lập tức tới an ninh năng lượng của Việt Nam.

Nguy cơ bất ổn do Trung Đông mang lại cho Việt Nam có thể đẩy giá dầu tăng, gây áp lực lên lạm phát; gián đoạn vận tải qua Biển Đỏ và kênh đào Suez; ảnh hưởng kế hoạch nhập khí hóa lỏng dài hạn của Việt Nam. Tuy nhiên, các nước vùng Vịnh có nhu cầu ổn định hóa thị trường năng lượng và mở rộng hợp tác với châu Á, tạo cơ hội ký kết hợp đồng dài hạn.

Thứ hai, tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu sang Trung Đông.

Nhu cầu xuất khẩu hàng Việt Nam đến Trung Đông tăng nhanh ở các nhóm, như: điện tử; thiết bị điện; dệt may, da giày; gạo, hạt điều, thủy sản; vật liệu xây dựng; sản phẩm Halal tiêu chuẩn. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, chưa bao giờ doanh nghiệp Việt phải cùng lúc đối diện nhiều thách thức như hiện nay. Nguyên nhân có thể chỉ ra là do cấu trúc thị trường toàn cầu đang dần phân mảnh, thay thế trật tự toàn cầu hoá vốn gắn kết chặt chẽ trước đây6. Đặc biệt chính sách thuế quan mới từ Mỹ tiếp tục tạo áp lực lớn lên các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc mở rộng sang các thị trường mới như Trung Đông – khu vực gần như “miễn nhiễm” với rào cản thuế quan từ Mỹ – ngày càng được nhiều doanh nghiệp Việt hướng đến. Tuy nhiên, cho đến cuối năm 2025, Trung Đông vẫn là khu vực có tiềm năng lớn, nhưng chưa được khai thác sâu7.

Thứ ba, thu hút đầu tư từ các quỹ tài sản quốc gia Trung Đông.

Nhiều quỹ lớn tìm kiếm thị trường mới tại châu Á, trong đó có Việt Nam. Các khoản đầu tư tỷ USD trong các ngành định hình tương lai của nền kinh tế toàn cầu đang dần thay thế dầu mỏ tạo dựng “quyền lực mới” cho các nền kinh tế Trung Đông. Theo tính toán của Goldman Sachs, tổng tài sản của các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng vịnh (GCC), dự kiến tăng từ 2.700 tỷ USD năm 2021 lên 3.500 tỷ USD vào năm 2026. Tài sản của khối này được dự báo tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới, cung cấp nguồn vốn dồi dào cho hoạt động đầu tư vào các ngành phát triển mới, tương tự như “cỗ máy ATM” cung cấp tiền cho thị trường vốn cổ phần tư nhân, vốn mạo hiểm và các quỹ đang gặp khó khăn trong việc huy động tiền ở nơi khác. Thị trường mua bán và sáp nhập (M&A) cũng sôi động hơn khi nhận được sự quan tâm ngày càng tăng từ Trung Đông, với đa dạng ngành nghề từ ngân hàng đầu tư, bán lẻ, bệnh viện, thực phẩm… đến cả các dự án thể thao.

Theo tiêu chí hợp tác và đầu tư của các quỹ tài sản quốc gia Trung Đông, Việt Nam có thể thu hút vốn từ các quỹ này vào các lĩnh vực như: hạ tầng (sân bay, cảng biển, khu công nghiệp); năng lượng tái tạo; công nghệ nông nghiệp; trung tâm logistics; giáo dục – y tế chất lượng cao8.

Thứ tư, hợp tác lao động  việc làm.

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, số lượng lao động Việt Nam tại Trung Đông có xu hướng tăng nhưng vẫn ở mức khá khiêm tốn so với tiềm năng. Hiện Việt Nam chỉ có khoảng 15.000 lao động tại UAE, Qatar, Saudi Arabia, trong các ngành nghề như xây dựng, cơ khí… và một số ít người là kỹ sư. Tại Saudi Arabia, có thời điểm cao nhất ước khoảng gần 18.000 lao động, nhưng đến năm 2025 con số duy trì quanh mức 5.000. Ở UAE, số lao động Việt Nam tăng từ khoảng 3.500 người năm 2023 lên khoảng 4.500 người cuối năm 2024. Tại Qatar, số lao động Việt Nam hiện mới ở mức vài trăm đến gần 1.000 người9.

Có thể nói, dư địa hợp tác lao động – việc làm cho Việt Nam và khu vực này hiện còn rất lớn (xem thêm Bảng 1, 2). 

Bảng 1: Ước tính người lao động nước ngoài tại các nước thuộc Hội đồng Hợp tác các nước Ả Rập Vùng Vịnh (GCC)

NămƯớc tính số người lao động nước ngoài tại GCC (đơn vị tính: triệu người)Chú thích
200512,0Labour Migration to the GCC countries 10 
201015,5Migrant workers in the Gulf Cooperation Council region 11
201520,0Assessment of Labour Migration Statistics in the Arab States 12
202025,0Labor migration, remittances, and the economy in the Gulf Cooperation Council region 13

Bảng 2: Một số mốc số liệu tiêu biểu về lao động Việt Nam tại một số nước Trung Đông trong 20 năm qua

Thời điểmNước tiếp nhậnSố lao động Việt Nam (ước tính)Chú thích
2015 -2017Saudi Arabia8.000Labor migration, remittances, and the economy in the Gulf Cooperation Council region 14
2025Saudi Arabia5.000Người lao động gửi về nước khoảng 7 tỷ USD/năm 15
2023UAE3.500Quan hệ hợp tác Việt Nam-UAE sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới 16
12/2024UAE4.500Thị trường lao động UAE – cơ hội lớn cho người lao động Việt Nam 17
2024Qatar1.000Qatar sẵn sàng tiếp nhận nhiều hơn lao động Việt Nam 18
2024Qatar450Vietnamese in Qatar eager for Tet homecoming19

4. Gợi ý chính sách đối ngoại với các nước Trung Đông cho Việt Nam

Thứ nhất, tăng cường hiện diện ngoại giao của Việt Nam và củng cố quan hệ với các nước. 

Việt Nam cần mở thêm các cơ quan đại diện ngoại giao tại các trung tâm chiến lược như: Qatar, Oman, Bahrain; tăng tần suất chuyến thăm cấp cao, từ đó, tham gia sâu hơn vào các diễn đàn khu vực như Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC), GCC + ASEAN. Hiện tại Việt Nam có 6 cơ quan đại diện ngoại giao cấp đại sứ quán tại khu vực Trung Đông: Đại sứ quán Việt Nam tại Riyadh (Saudi Arabia); Đại sứ quán tại Abu Dhabi (United Arab Emirates (UAE); Đại sứ quán tại Doha (Qatar); Đại sứ quán tại Kuwait City (Kuwait); Đại sứ quán tại Tehran (Iran); Đại sứ quán tại Tel Aviv (Israel)20.

Việt Nam nên củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác với UAE, Saudi Arabia, Qatar, là các đối tác năng lượng và đầu tư hàng đầu. Thúc đẩy Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – UAE, tiến hành xúc tiến các thỏa thuận hợp tác năng lượng và hàng không, hợp tác logistics và hàng hải với các quốc gia này. 

Tính đến cuối năm 2025, Việt Nam đã ký hai hiệp định thương mại tự do đối tác kinh tế toàn diện với các quốc gia Trung Đông như UAE và Israel; đang tiến hành đàm phán sâu rộng với các nước thuộc Hội đồng Hợp tác các nước Ả Rập Vùng Vịnh (GCC) và các quốc gia khác. Mặc dù có ít nhất 2 hiệp định đã ký, nhưng với các quốc gia Trung Đông nói chung (cả GCC) thì số lượng chưa nhiều nếu so với toàn cầu. Phần lớn vẫn đang trong giai đoạn thảo luận hoặc đàm phán.

Thứ hai, xây dựng chiến lược quốc gia về xuất khẩu Halal. 

Việt Nam đã chính thức thành lập cơ quan nhà nước về chứng nhận Halal với tên gọi là Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia21 (HALCERT), có chức năng tư vấn và hỗ trợ lãnh đạo về quản lý nhà nước về chứng nhận Halal, tổ chức đánh giá sự phù hợp, cung cấp dịch vụ liên quan tới lĩnh vực Halal theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân. 

HALCERT chịu sự quản lý của Tổng cục Tiêu chuẩn, Đo lường, Chất lượng Việt Nam (QUACERT). Việc thành lập HALCERT giúp tăng khả năng kiểm soát chất lượng, xây dựng chuẩn Halal quốc gia, tăng lòng tin với thị trường Trung Đông và các nước Hồi giáo, phù hợp gắn với cơ hội mở rộng xuất khẩu của Việt Nam.

Mặc dù HALCERT được thành lập, việc triển khai thực tế (chuẩn Halal quốc gia, công nhận quốc tế, quy trình, hạ tầng kiểm tra…) vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện. Trong thời gian tới cần có quy hoạch ngành công nghiệp Halal (thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm). Vì vậy, Việt Nam cần ký hợp tácchứng nhận Halal với UAE, Malaysia, Indonesia; xây dựng trung tâm logistics Halal tại Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số địa phương có thế mạnh hải cảng, hàng không. Việt Nam cần phát triển hành lang thương mại biển Việt Nam – Trung Đông, tạo tuyến vận tải biển trực tiếp từ Việt Nam đến Jebel Ali (Dubai), Dammam, Doha… để giảm chi phí và rủi ro gián đoạn trong cung ứng hàng hóa.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư từ Quỹ SWF của Trung Đông.

Quỹ SWF Trung Đông là cách gọi nhóm các Sovereign Wealth Funds (SWFs) – tức Quỹ tài sản quốc gia, được sở hữu và quản lý bởi các chính phủ các nước ở Trung Đông, chủ yếu tại các nước vùng Vịnh (GCC). Đây là những quỹ đầu tư lớn và có nhiều quyền lực bậc nhất thế giới, hình thành chủ yếu từ các nguồn thu dầu khí, thặng dư ngoại tệ, tài sản quốc gia tích lũy trong nhiều thập kỷ.

SWF Trung Đông không chỉ đầu tư nhằm bảo toàn tài sản quốc gia mà còn là công cụ chiến lược, giúp các nước GCC đa dạng hóa nền kinh tế hậu dầu mỏ, mở rộng ảnh hưởng kinh tế, tài chính toàn cầu. Đa phần các quỹ SWF Trung Đông nằm trong nhóm đầu các quỹ đầu tư lớn nhất thế giới. Một số Quỹ SWF Trung Đông lớn nhất, như Quỹ đầu tư công (Public Investment Fund – PIF) của Saudi Arabia, với quy mô tài sản là 925 tỷ USD (tại thời điểm năm 2025) đầu tư vào các lĩnh vực, như: thể thao, AI, năng lượng sạch, bất động sản, công nghiệp quốc phòng22. UAE có nhiều SWF, tiêu biểu như Quỹ Abu Dhabi Investment Authority (ADIA) với giá trị 993 tỷ USD; Quỹ Mubadala Investment Company với giá trị 280 tỷ USD; Quỹ ADQ với giá trị 200 tỷ USD; Quỹ ICD Dubai vói giá trị 320 tỷ USD. Tổng tài sản SWF của UAE vượt 1,7 nghìn tỷ USD, đứng đầu Trung Đông23. Ngoài ra còn hàng loạt các quỹ của Qatar, Kuwait, Oman, Bahrain…được đầu tư với nhiều mục đích khác nhau, cả trong nước và vươn ra quốc tế24.

Chiến lược đầu tư của SWF Trung Đông tập trung vào 4 nhóm ngành lớn, như: phát triển năng lượng và năng lượng tái tạo hydrogen xanh, thu hồi và lưu giữ carbon, khí hóa lỏng, điện mặt trời, điện gió; nhóm công nghệ cao, gồm AI, chip bán dẫn, năng lượng sạch, công nghệ mới; nhóm hạ tầng quy mô lớn như cảng biển, sân bay, logistics, giao thông thông minh… Có thể nói, SWF là “vũ khí tài chính” và “người chơi quyền lực” trong việc chuyển đổi kinh tế quốc gia, củng cố vị thế địa chính trị,an ninh năng lượng và công nghệ cho mỗi quốc này.

SWF Trung Đông là các quỹ tài sản quốc gia sở hữu hàng nghìn tỷ USD, đóng vai trò trung tâm trong chiến lược phát triển dài hạn của các nước GCC và là nguồn vốn tiềm năng rất lớn cho Việt Nam. Việc hiểu rõ SWF giúp Việt Nam xây dựng chiến lược thu hút đầu tư, phát triển năng lượng, hạ tầng và công nghệ, mở rộng quan hệ đối ngoại kinh tế với khu vực Trung Đông.

Theo đánh giá của các chuyên gia, cơ hội cho Việt Nam từ SWF Trung Đông là rất lớn, trong khi đó, hiện tại Việt Nam hầu như bỏ ngỏ việc thu hút đầu tư từ Quỹ SWF Trung Đông. Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp cận và hợp tác với SWF Trung Đông về các lĩnh vực đầu tư, như: đầu tư vào hạ tầng chiến lược (cảng biển, sân bay, đường sắt); đầu tư vào năng lượng tái tạo (điện gió, hydro xanh); hợp tác trong nông nghiệp và an ninh lương thực; đầu tư vào khu công nghiệp và logistics; công nghệ tài chính, ngân hàng và thương mại; đầu tư vào công nghệ cao (AI, chip, dữ liệu).

Trong thời gian tới, Việt Nam cần sớm lập tổ công tác để làm việc với các quỹ này, xây dựng một số dự án “điểm nhấn” như cảng trung chuyển quốc tế, nhà máy hydro xanh, đô thị thông minh … để tận dụng cơ hội từ các Quỹ SWF Trung Đông. 

Thứ tư, hoàn thiện chính sách an ninh năng lượng, lao động, văn hóa, du lịch.

Về chính sách an ninh năng lượng, Việt Nam cần ký hợp đồng mua khí hóa lỏng dài hạn nhằm bảo đảm nguồn cung ổn định cho các trung tâm điện khí trong cả nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với Trung Đông về an ninh hàng hải, tham gia các sáng kiến bảo đảm an ninh tại Biển Đỏ, eo biển Hormuz thông qua hợp tác kỹ thuật và chia sẻ thông tin. Ngoài ra, cần hoàn thiện chính sách lao động và giáo dục để phát huy hoạt động xuất khẩu lao động truyền thống, mở rộng xuất khẩu lao động chất lượng cao mà Việt Nam có lợi thế, như: cơ khí, xây dựng, điều dưỡng, kỹ thuật y tế, công nghệ thông tin, an ninh mạng. Cần khuyến khích mở trung tâm đào tạo tiếng Ả Rập tại Việt Nam, giúp mở rộng giao thương và giảm rào cản ngôn ngữ trong lao động và du lịch.

Việt Nam cần xây dựng chiến lược thu hút khách du lịch Trung Đông, hướng vào phát triển du lịch nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch y tế, thẩm mỹ, du lịch Halal, hình thành các khu phố mua sắm cao cấp.Việc thúc đẩy giao lưu văn hóa, tổ chức tuần lễ văn hóa Việt Nam tại UAE, Saudi Arabia, Qatar, lễ hội Halal – Việt Nam, hợp tác phim ảnh, âm nhạc… sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy hợp tác văn hoá – du lịch giữa Việt Nam và Trung Đông. 

Thứ năm, xây dựng Đề án hợp tác Việt Nam – Trung Đông giai đoạn 2026 – 2035.

Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức trong phát triển quan hệ đối ngoại với các nước Trung Đông. Giai đoạn 2023 -2025, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách mới, tạo ra “khung thể chế mới” giúp Việt Nam tiếp cận hiệu quả hơn thị trường và hợp tác vói các quốc gia tại Trung Đông.

Việt Nam cần nhận diện rõ các thách thức trong hợp tác, đó là, trong nước, các dự án của Việt Nam thường quy mô nhỏ, chưa tương xứng nhu cầu đầu tư của các quỹ SWF; khung pháp lý PPP và bảo đảm đầu tư chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư Trung Đông; chuỗi cung ứng Halal của Việt Nam còn rời rạc, năng lực chứng nhận mới bắt đầu; thiếu đầu mối quốc gia chuyên trách về vốn SWF Trung Đông.

Việt Nam cũng cần nhận diện các cơ hội như sự phù hợp trong mục đích đầu tư của quỹ SWF với nhu cầu và lợi thế của Việt Nam và được Việt Nam ủng hộ và thể chế hóa với hệ thống chính sách thu hút đầu tư cởi mở, an toàn và hiệu quả bền vững. Việt Nam có khả năng trở thành trung tâm chế biếnvà xuất khẩu sản phẩm Halal do có lợi thế là trung tâm nông nghiệp và thực phẩm sạch của thế giới; có hệ sinh thái và tài nguyên đáp ứng nhu cầu đầu tư năng lượng và kinh tế xanh, cũng như đáp ứng yêu cầu về thi trường và lực lượng lao động khi hợp tác với các quốc gia Trung Đông. 

Như vậy, đã đến lúc cần xây dựng và triển khai Đề án hợp tác Việt Nam – Trung Đông giai đoạn 2026 – 2035 để hiện thực hóa các chính sách hợp tác với các quốc gia này. Cần thiết lập “Tổ công tác quốc gia về hợp tác với SWF Trung Đông” dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, do Bộ Tài chính chủ trì; xác lập từ 30 – 50 dự án chiến lược, tập trung vào hạ tầng, năng lượng sạch, đô thị thông minh, cảng biển,  sân bay, nông nghiệp Halal, công nghệ số…. Từ đó, phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp Halalcủa Việt Nam; đưa HALCERT trở thành tổ chức chứng nhận đạt chuẩn quốc tế OIC-SMIIC và hình thành “Vietnam Halal Hub”.

4. Kết luận

Cục diện Trung Đông đang thay đổi nhanh, khó dự báo và tác động mạnh tới kinh tế – an ninh toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần xây dựng chiến lược tiếp cận chủ động, linh hoạt, đa dạng hóa quan hệ và tận dụng tối đa các cơ hội từ khu vực giàu tiềm năng này. Bằng việc mở rộng hiện diện ngoại giao, đẩy mạnh hợp tác năng lượng, thu hút đầu tư, phát triển thị trường Halal và tăng cường giao lưu nhân dân, Việt Nam có thể nâng cao vị thế, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc và góp phần vào hòa bình – ổn định khu vực trong giai đoạn 2026 – 2035.

Chú thích:

1. Vai trò của các nước Trung Đông trong bảo đảm an ninh năng lượng của Trung Quốc. Tạp chí Cộng sản, 25/8/2020, ISSN 2734-9071. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/gop-y-du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/817192/view_content#.

2. BP: Statistical Review of World Energy 2019. https://www.bp.com/content/dam/bp/business-sites/en/global/corporate/pdfs/energy-economics/statistical-review/bp-stats-review-2019-full-report.pdf, 68th Edition 2019. 

3. 88% lượng dầu nhập khẩu của Việt Nam đến từ Kuwait. https://mekongasean.vn/88-luong-dau-nhap-khau-cua-viet-nam-den-tu-kuwait-32857.htmlext=, ngày 28/8/2024.

4. Thị trường Halal là chiến lược mới cho doanh nghiệp Việt. https://thoibaonganhang.vn/thi-truong-halal-la-chien-luoc-moi-cho-doanh-nghiep-viet-165479.html, ngày 9/6/2025.

5. Ba thị trường cung cấp khí hoá lỏng lớn nhất cho Việt Nam.  https://baodautu.vn/3-thi-truong-cung-cap-khi-hoa-long-lon-nhat-cho-viet-nam-d244265.html, ngày 05/02/2025.

6, 7. Hàng Việt hướng đến thị trường Trung Đông.  https://baodautu.vn/hang-viet-huong-den-thi-truong-trung-dong-d291315.html, ngày 31/5/2025.

8. “Cổ tích” về các quỹ đầu tư Trung Đông. https://baoquocte.vn/co-tich-ve-cac-quy-dau-tu-trung-dong-292029.html), ngày 2/11/2024. 

9. Đảm bảo an ninh cho lao động Việt Nam tại Trung Đông. https://thanhnien.vn/dam-bao-an-ninh-cho-lao-dong-viet-nam-tai-trung-dong-185240918164028112.htm, ngày 18/9/2024. 

10. Labour Migration to the GCC countries. https://www.un.org/en/development/desa/population/events/pdf/other/turin/ALNAJJAR.pdf, tháng 6/2006. 

11. Migrant workers in the Gulf Cooperation Council region.https://en.wikipedia.org/wiki/Migrant_workers_in_the_Gulf_Cooperation_Council_region;

12. Assessment of Labour Migration Statistics in the Arab States.  https://www.ilo.org/sites/default/files/2024-07/iloROAS-labour-migration%20report-March2024-web.pdf; Published 2023. 

13, 14.  Labor migration, remittances, and the economy in the Gulf Cooperation Council region. https://link.springer.com/article/10.1186/s40878-024-00390-3, ngày 28/6/2024. 

15. Người lao động gửi về nước khoảng 7 tỷ USD/năm. https://www.sggp.org.vn/nguoi-lao-dong-gui-ve-nuoc-khoang-7-ty-usdnam-post820712.html. Ngày 30/10/2025. 

16. Quan hệ hợp tác Việt Nam-UAE sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới. https://trungtamwto.vn/thi-truong-duc/23326-quan-he-hop-tac-viet-nam-uae-se-buoc-vao-giai-doan-phat-trien-moi. tháng 5/2025. 

17. Thị trường lao động UAE – cơ hội lớn cho người lao động Việt Nam. https://laodongdoanthe.vn/thi-truong-lao-dong-uae-co-hoi-lon-cho-nguoi-lao-dong-viet-nam-107790.html, ngày 31/10/2024. 

18. Qatar sẵn sàng tiếp nhận nhiều hơn lao động Việt Nam. https://baochinhphu.vn/qatar-san-sang-tiep-nhan-nhieu-hon-lao-dong-viet-nam-10224103120483857.htm. Ngày 31/10/2025. 

19. Vietnamese in Qatar eager for Tet homecoming.  https://news.tuoitre.vn/vietnamese-in-qatar-eager-for-tet-homecoming-10383713.htm, ngày 31/1/2025. 

20. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoại. https://mofa.gov.vn/vi/cac-don-vi.

21. Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia. https://halcert.mst.gov.vn/, ngày 24/4/2024. 

22. Saudi PIF on track to reach $2tn in AuM, 2nd-largest globally by 2030. https://arab.news/5rc8p, ngày 10/1/2025

23. Abu Dhabi named world’s wealthiest city with US$ 1.7 trillion. https://globalswf.com/news/abu-dhabi-named-world-s-wealthiest-city-with-us-1-7-trillion, ngày 8/10/2024. 

24.  Quỹ đầu tư quốc gia tại Trung Đông: Thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới vốn đầu tư mạo hiểm,https://www.ashurst.com/en/insights/sovereign-wealth-funds-in-the-middle-east/, ngày 9/4/2025. 

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2024). Nghị quyết số 190/NQ-CP ngày 14/10/2024 về việc ấn định thời điểm có hiệu lực của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Israel (VIFTA).

2. Chính phủ (2025). Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày14/5/2025 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 190/NQ-CP về thời điểm có hiệu lực của Hiệp định VIFTA.

3. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 10/QĐ-TTg ngày 14/2/2023 phê duyệt Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”. 

4. Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (2024). Quyết định số 689/QĐ-TĐC ngày 29/3/2024 về việc thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia (HALCERT).

5. Quyết tâm tạo đột phá trong hợp tác giữa Việt Nam với các nước khu vực Trung Đông – Châu Phi. https://www.tapchithongtindoingoai.vn, ngày 12/3/2024.