Hoàn thiện thể chế bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản trị địa phương hai cấp – từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh

TS. Phan Hải Hồ
Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Thể chế là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong tiến trình lãnh đạo đất nước. Trong bối cảnh mới, với yêu cầu phát triển của nền quản trị hiện đại, việc hoàn thiện thể chế càng quan trọng. Bài viết tập trung nghiên cứu về: (1) Thể chế, thể chế quản trị địa phương hai cấp; (2) Mối liên hệ, sự tác động giữa thể chế với vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản trị địa phương hai cấp; (3) Nghiên cứu thực trạng tại TP. Hồ Chí Minh; (4) Khuyến nghị hoàn thiện thể chế với định hướng, nội dung và giải pháp khoa học.

Từ khóa: Thể chế; quản trị địa phương hai cấp; vai trò lãnh đạo của Đảng; thể chế Đảng; thể chế nhà nước.

1. Đặt vấn đề

Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo, thể hiện rõ trong các bản Hiến pháp và chủ trương, chính sách của Đảng. Theo đó, thể chế là yếu tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, đặc biệt là trong “Kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc”.

TP. Hồ Chí Minh – Trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học – công nghệ hàng đầu cả nước, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố càng quan trọng, được minh chứng qua thực tiễn quản trị siêu đô thị (đặc biệt là sau khi sáp nhập với Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu). Để vai trò lãnh đạo của Đảng phát huy hiệu quả quản trị địa phương theo mô hình chính quyền hai cấp, hướng tới mô hình đô thị thông minh cần có một hệ thống thể chế đồng bộ, minh bạch, tránh chồng chéo giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền. Việc xây dựng thể chế phù hợp không chỉ giúp Đảng bộ Thành phố phát huy vai trò định hướng chiến lược mà còn bảo đảm sự vận hành linh hoạt, hiệu quả của bộ máy chính quyền đô thị.

2. Cơ sở khoa học

2.1. Các khái niệm có liên quan

(1) Thể chế là hệ thống các quy tắc, luật lệ, và cơ cấu tổ chức được thiết lập để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, định hướng hành vi của các chủ thể và duy trì trật tự xã hội.

(2) Thể chế quản trị địa phương hai cấp là một hệ thống quy định, quy tắc, luật lệ quản lý, sử dụng công nghệ và dữ liệu để tối ưu hóa quy trình, đưa ra quyết định dựa trên thông tin và thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, nhấn mạnh vào tính linh hoạt, thích ứng và sự tham gia của chính quyền địa phương hai cấp, thay vì mô nhiều cấp truyền thống.

Thể chế ở cấp quốc gia được phân định thành hai cấp độ chính: thể chế Trung ương và thể chế địa phương, có mối quan hệ chặt chẽ, vừa phân quyền, phân cấp, vừa tập trung nhằm bảo đảm sự thống nhất, thông suốt trong quản lý và phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Thể chế trung ương giữ vai trò kiến tạo, định hướng và điều tiết vĩ mô còn địa phương là cấp thực thi, cụ thể hóa chính sách và giải quyết các vấn đề của cộng đồng dân cư. Việc cân bằng hài hòa giữa yếu tố tập trung và phân quyền, phân cấp, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời, phát huy dân chủ và tính tự chủ của địa phương là chìa khóa để nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia trong bối cảnh mới.

2.2. Mối quan hệ giữa thể chế với vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản trị địa phương hai cấp

Trong quản trị địa phương hai cấp, mối quan hệ giữa thể chế và vai trò lãnh đạo của Đảng là một vấn đề phức tạp và then chốt. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là một mô hình đang được áp dụng ở nước ta. Để bảo đảm sự phát triển bền vững, cần có sự phối hợp hài hòa giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước, đồng thời, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Do vậy, thể chế vừa là công cụ, vừa là phương thức để Đảng hiện thực hóa vai trò lãnh đạo của mình, đồng thời phải không ngừng được hoàn thiện để đáp ứng các tiêu chuẩn của quản trị địa phương hai cấp. Theo đó, Đảng lãnh đạo việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, đồng thời, chính hệ thống thể chế đó tác động ngược lại, giúp củng cố, chuẩn hóa và nâng cao hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là một vòng tròn tương tác, trong đó chất lượng của thể chế phản ánh năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng lại phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng của thể chế, cụ thể:

Thứ nhất, Đảng lãnh đạo, định hình và kiến tạo thể chế.

(1) Đảng định hướng về chính trị và tư tưởng. Thông qua Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, Đảng vạch ra những định hướng chiến lược, mục tiêu và nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển của đất nước. Đây là “kim chỉ nam” chính trị để xây dựng toàn bộ hệ thống thể chế. Thể chế phải phản ánh và phục vụ cho việc hiện thực hóa các mục tiêu chính trị này.

(2) Đảng lãnh đạo quá trình thể chế hóa. Đảng lãnh đạo Nhà nước, chuyển hóa đường lối, chủ trương thành pháp luật và các chính sách cụ thể. Nếu không có quá trình này, đường lối của Đảng sẽ chỉ dừng lại ở các văn kiện, không có sức mạnh pháp lý để đi vào cuộc sống.

(3) Đảng lãnh đạo công tác cán bộ để vận hành thể chế. Đảng lựa chọn, đào tạo và bố trí những cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực vào các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước. Chính đội ngũ cán bộ này là những người trực tiếp tổ chức, điều hành và bảo đảm cho các thể chế vận hành một cách hiệu quả, đúng định hướng.

(4) Đảng kiểm tra, giám sát việc thực thi thể chế. Thông qua các cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng, bảo đảm rằng, các thể chế không bị vận hành chệch hướng, phục vụ đúng lợi ích của Nhân dân và mục tiêu mà Đảng đã đề ra.

Thứ hai, thể chế củng cố, chuẩn hóa và đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng.

(1) Thể chế chuẩn hóa phương thức lãnh đạo. Khi đường lối của Đảng đã được thể chế hóa thành pháp luật, phương thức lãnh đạo của Đảng chuyển từ các mệnh lệnh, chỉ thị cụ thể sang lãnh đạo bằng pháp luật và thông qua Nhà nước, làm tăng tính chính danh, tính khoa học và tính thuyết phục trong sự lãnh đạo của Đảng, tránh sự tùy tiện, bao biện làm thay.

(2) Thể chế tạo ra khuôn khổ (giới hạn tích cực). Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, theo đó, thể chế do Đảng lãnh đạo xây dựng nên, lại trở thành cơ chế để kiểm soát quyền lực, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng luôn đi đúng quỹ đạo, vì lợi ích chung, đồng thời là công cụ để phòng chống sự suy thoái của cán bộ, đảng viên.

(3) Thể chế là kênh phản hồi thực tiễn. Quá trình vận hành của thể chế, đặc biệt là việc thực thi pháp luật và chính sách sẽ bộc lộ những điểm phù hợp và chưa phù hợp với thực tiễn. Đây chính là kênh phản hồi khách quan và quan trọng nhất để Đảng có cơ sở tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm và kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện đường lối của mình.

(4) Thể chế thúc đẩy đổi mới tư duy và năng lực của Đảng. Một hệ thống thể chế hiện đại, phức tạp và hội nhập đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ, kiến thức về pháp luật, kinh tế, quản lý… Đảng phải liên tục tự đổi mới, nâng cao năng lực cầm quyền.

3. Thực trạng về thể chế bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản trị địa phương hai cấp tại TP. Hồ Chí Minh

Những năm qua, thể chế bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng tại Thành phố đã từng bước được hoàn thiện, thể hiện rõ nét trong các văn bản của Đảng bộ và chính quyền TP. Hồ Chí Minh góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Các kết quả này thể hiện trên nhiều phương diện, từ việc cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Trung ương đến việc ban hành các quy định, cơ chế riêng phù hợp với thực tiễn của Thành phố, cụ thể:

Một, Thành ủy và các cấp ủy trực thuộc đã tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều quy chế, quy định, kết luận nhằm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng về quản trị địa phương hai cấp. Sau khi thực hiện Kết luận số 179-KL/TW ngày 25/7/2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục triển khai các nhiệm vụ hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động của mô hình chính quyền địa phương hai cấp Thành ủy đã ban hành nhiều văn bản, như: Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố, Ban Thường vụ Thành ủy và Thường trực Thành ủy (khóa XI) (nhiệm kỳ 2020 – 2025); Quyết định số 82-QĐ/TU ngày 25/7/2025 của Ban Thường vụ Thành ủy về tạm giao biên chế khối Đảng, cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố; đơn vị sự nghiệp trực thuộc Thành ủy; khối Đảng, cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, đặc khu năm 2025…

Hai, trên cơ sở các chỉ đạo từ Trung ương, Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố đã chỉ đạo đẩy mạnh việc phân cấp, ủy quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Nhiều quy định đã được ban hành nhằm cụ thể hóa trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, giúp phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành nhưng vẫn bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, ví dụ: Kết luận số 27-KL/TU ngày 25/7/2025 của Ban Thường vụ Thành ủy về tạm giao biên chế khối Đảng, cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố; đơn vị sự nghiệp trực thuộc Thành ủy; khối Đảng, cơ quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, đặc khu năm 2025.

Ba, Thành ủy chỉ đạo đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị theo hướng khoa học, dân chủ, hiệu quả, tăng cường lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên, qua công tác cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương và Thành phố.

Bốn, công tác cán bộ được xem là khâu “then chốt của then chốt”, do đó, Thành phố đã cụ thể hóa và triển khai nghiêm túc các quy định của Trung ương về công tác cán bộ, như: Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Trên cơ sở đó, Thành phố đã ban hành nhiều văn bản cụ thể nhằm lựa chọn, bố trí những cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Năm, Thành ủy đã ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, Nghị quyết số 31-NQ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có cơ chế, chính sách đặc thù để bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng thể chế, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ.

Sáu, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tăng cường và có nhiều đổi mới, góp phần giữ gìn kỷ luật, kỷ cương của Đảng và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Các quy trình, quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được rà soát, bổ sung, hoàn thiện, bảo đảm tính đồng bộ, chặt chẽ và hiệu quả.

Bảy, Thành ủy và UBND Thành phố đã ban hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa Quyết định 217QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tạo cơ chế để người dân và các tổ chức tham gia góp ý, giám sát hoạt động của cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo đó, thể chế về vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ngày càng được hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Tám, cơ chế đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với Nhân dân được Thành phố triển khai, duy trì và phát huy hiệu quả giúp giải quyết kịp thời nhiều bức xúc, kiến nghị chính đáng của người dân, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thể chế bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng tại Thành phố vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập:

(1) Thể chế từ Trung ương đến địa phương có một số điểm chưa thống nhất, chưa bao quát các vấn đề, vẫn là điểm nghẽn cho thực tiễn phát triển Thành phố, đặc biệt là chưa phát huy hết vai trò của Đảng trong quản trị địa phương hai cấp. Thể chế địa phương được ban hành dựa vào thể chế Trung ương nên chủ yếu là triển khai thực hiện, nếu có hướng dẫn chi tiết thì chỉ làm rõ thêm nhưng vẫn trong phạm vi khuôn khổ thể chế Trung ương.

(2) Thể chế trong mối quan hệ Trung ương và địa phương. Địa phương chủ yếu thực hiện theo chỉ đạo Trung ương nên các thể chế được ban hành ít mang tính sáng tạo, tính độc lập về cách thức triển khai, vận hành đã hạn chế phần nào vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong điều kiện mới với yêu cầu phát triển của nền quản trị hiện đại.

(3) Thể chế trong điều kiện mới là quản trị địa phương hai cấp theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, cách mạng 4.0, chính phủ số. Thể chế chính trị của Đảng đã được xây dựng và ban hành theo hướng tiên phong, dẫn lối và định hướng cho các thể chế của chính quyền, mở đường để chính quyền thể chế hóa thành pháp luật. Tuy nhiên, khuôn khổ hành động chưa đủ rộng để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng của Đảng, đặc biệt trong bối cảnh mới về chính phủ số, chính quyền địa phương 2 cấp.

(4) Thể chế vẫn xuất hiện một số điểm chồng chéo chức năng giữa Đảng và chính quyền. Một số quy định về mối quan hệ giữa tổ chức Đảng và cơ quan hành chính chưa thật rõ ràng, dẫn đến tình trạng lẫn lộn giữa vai trò lãnh đạo và quản lý. Điều này gây khó khăn trong phân công nhiệm vụ, làm giảm hiệu quả thực thi chính sách tại các sở, ngành và chính quyền cấp xã.

(5)Phương thức lãnh đạo chưa chuyển mạnh sang chiến lược. Ở một số cấp, phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn thiên về chỉ đạo trực tiếp, can thiệp hành chính, chưa phát huy đầy đủ vai trò định hướng chiến lược và kiểm tra giám sát. Điều này ảnh hưởng đến tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị – xã hội trong việc giải quyết các vấn đề đô thị phức tạp như Thành phố hiện nay.

(6) Thiếu minh bạch và cơ chế phản biện xã hội. Thể chế hiện hành chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nền quản trị đô thị hiện đại, vốn đòi hỏi tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân. Một số quy định nội bộ của Đảng còn thiếu tính công khai, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho giám sát xã hội và phản biện chính sách. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Đảng và chính quyền Thành phố trong hoạch định và thực thi chính sách chưa thật sự chặt chẽ, ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị đô thị.

4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện thể chế

Thành phố đang triển khai quản trị địa phương hiện đại theo mô hình chính quyền hai cấp, chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), yêu cầu nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng càng trở nên cấp thiết. Vì vậy, hoàn thiện thể chế tại Thành phố phải bảo đảm các quan điểm định hướng sau:

Thứ nhất, vừa bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng, vừa thích ứng với các nguyên tắc quản trị tiên tiến, tránh hành chính hóa tổ chức Đảng hoặc làm lu mờ vai trò của các thiết chế dân chủ trên địa bàn Thành phố.

Thứ hai, việc hoàn thiện thể chế tại Thành phố trong điều kiện mới không chỉ là yêu cầu khách quan của sự phát triển siêu đô thị tầm cỡ khu vực mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định chiến lược và năng lực kiểm tra, giám sát của Đảng.

Thứ ba, thể chế cần được thiết kế rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các chủ thể trong quản trị hiện đại của hệ thống chính trị đô thị; đồng thời tạo điều kiện để Đảng lãnh đạo bằng định hướng chiến lược, bằng kiểm tra giám sát, thay vì can thiệp hành chính trực tiếp.

Việc tuân thủ các quan điểm nêu trên là yếu tố tất yếu để Thành phố xây dựng một nền quản trị đô thị hiện đại, hiệu quả, vai trò lãnh đạo của Đảng được thực hiện xuyên suốt, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân và nâng cao vị thế của Thành phố trong khu vực và quốc tế.

Trên cơ sở đó, giải pháp hoàn thiện thể chế tại Thành phố cần tập trung như sau:

Một là, hoàn thiện thể chế chính trị của Đảng.

(1) Đối với Trung ương: xây dựng thể chế chỉ đạo mạnh mẽ việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng khoa học, hiện đại và phù hợp với thực tiễn phát triển của một đô thị đặc biệt như TP. Hồ Chí Minh; hoàn thiện các quy định chưa thống nhất từ Trung ương xuống địa phương, các quy định chưa “hoàn toàn đổi mới”, các quy định chưa phù hợp với thực tiễn địa bàn Thành phố; xây dựng các quy định về hội nghị, họp chi bộ, đảng bộ thiết thực, phù hợp với thực tiễn địa phương, chú trọng các hình thức họp trực tiếp trong bối cảnh sáp nhập địa phương, đơn vị hành chính và tổ chức bộ máy mà Thành phố đang phải đối diện với nhiều vấn đề về tổ chức, bộ máy, địa giới hành chính, nhân sự, cách thức vận hành…

(2) Đối với Đảng bộ Thành phố: chuyển mạnh từ chỉ đạo trực tiếp sang định hướng chiến lược, kiểm tra, giám sát và tạo cơ chế phối hợp hiệu quả với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong các chương trình trọng điểm như chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, phát triển kinh tế xanh và đô thị thông minh. Thể chế hóa vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng tại Thành phố phải được thực hiện thông qua hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, bảo đảm tính pháp lý và tính khả thi cao. Cần tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của tổ chức Đảng, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản trị nội bộ và giám sát quyền lực, qua đó nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng bộ Thành phố trong điều kiện quản trị đô thị theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng tại Thành phố theo hướng hiện đại, khoa học, trong đó tăng cường năng lực hoạch định chính sách, năng lực kiểm tra, giám sát và phản ứng chính sách trong bối cảnh Thành phố đang đối mặt với nhiều biến động về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản trị nội bộ các cơ sở Đảng và trong toàn Đảng bộ Thành phố, theo đó, chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu cán bộ, theo dõi thực hiện nghị quyết, chỉ thị sẽ góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý và giám sát. Tiên phong triển khai các nền tảng số phục vụ công tác Đảng, kết nối dữ liệu giữa các cấp ủy, tổ chức Đảng và chính quyền.

Đẩy mạnh công khai, minh bạch trong hoạt động của tổ chức Đảng tại Thành phố, tạo điều kiện để Nhân dân giám sát, phản biện chính sách, qua đó củng cố niềm tin của xã hội đối với vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản trị đô thị, đặc biệt là quản trị chính quyền cấp xã mới. Nghiên cứu, ứng dụng Blockchain trong thể chế giám sát hoạt động của Đảng, như xây dựng thể chế ứng dụng mới cho phép Nhân dân và Mặt trận Tổ quốc giám sát hoạt động của Đảng thông qua nền tảng công nghệ Blockchain là một giải pháp mang tính đột phá. Với đặc tính không thể sửa đổi dữ liệu, Blockchain giúp bảo đảm tính minh bạch, chống lạm quyền và tăng cường trách nhiệm giải trình trong quá trình lãnh đạo, điều hành. Thể chế này không làm suy giảm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng mà ngược lại, giúp củng cố niềm tin xã hội, tạo cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả từ bên ngoài hệ thống chính trị.

Cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác thể chế, quản trị và kiểm tra, giám sát, đặc biệt tại các sở ngành, xã, phường và đặc khu.Đội ngũ này phải có tư duy đổi mới, năng lực chuyên môn cao và phẩm chất chính trị vững vàng để đáp ứng yêu cầu quản trị đô thị hiện đại. Xây dựng cơ chế tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ cán bộ phù hợp, tạo động lực để cán bộ phát huy năng lực, sáng tạo trong công việc. Việc thí điểm các mô hình quản trị hiện đại tại một số xã, phường… sẽ là cơ sở thực tiễn quan trọng để nhân rộng và hoàn thiện thể chế phù hợp.

Bên cạnh đó, cần gắn kết trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện thể chế. Việc hoàn thiện thể chế không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách như Ban Tổ chức Thành ủy, Ban Nội chính, Sở Nội vụ… mà cần có sự tham gia tích cực của toàn Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội Thành phố.Đây là điều kiện tiên quyết để Thành phố xây dựng một nền quản trị đô thị hiện đại, dân chủ, hiệu quả, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định một cách vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của Thành phố trong thời kỳ mới.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế nhà nước.

(1) Đối với Trung ương:

Hoàn thiện các văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ có liên quan đến Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và các văn bản khác của Đảng: thể chế về việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, quản trị địa phương theo mô hình chính quyền hai cấp, về phân quyền, phân cấp, ủy quyền. Theo đó, Đảng sẽ thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách toàn diện, hiệu quả.

Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát quyền lực và chống lợi ích nhóm cũng là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong mối liên hệ trực tiếp với hiệu lực quản trị và giữ vững niềm tin của nhân dân.

(2) Đối với Thành phố:

Hoàn thiện thể chế về mô hình chính quyền hai cấp, cụ thể là các quy định về cơ chế phân cấp, phân quyền và giám sát, hạ tầng công nghệ thông tin và thúc đẩy chuyển đổi số, hoàn thiện hạ tầng số, biên chế, cơ cấu tổ chức bộ máy, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng các quy định về quản trị hiệu quả địa bàn mở…

Rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và quy định nội bộ. Cần tiến hành rà soát, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật để thể chế hóa rõ ràng, đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính quyền đô thị.

Bảo đảm tính thống nhất giữa các nghị quyết, chỉ thị của Thành ủy và pháp luật của Nhà nước, tránh chồng chéo, mâu thuẫn hoặc lẫn lộn giữa chức năng lãnh đạo và chức năng quản lý hành chính của Ủy ban nhân dân Thành phố và cấp xã, các sở ngành.

Xây dựng, quy định rõ cơ chế phối hợp giữa tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước tại Thành phố, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện thông qua định hướng chiến lược, kiểm tra, giám sát thay vì can thiệp hành chính trực tiếp vào hoạt động điều hành.

5. Kết luận

Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, phù hợp với yêu cầu phát triển nền quản trị địa phương hai cấp cần xây dựng và hoàn thiện thể chế nói chung, thể chế chính trị của Đảng và thể chế Nhà nước nói riêng. Đặc biệt, đối với Thành phố, cần phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong việc hoạch định chiến lược phát triển thành phố, sắp xếp, tinh giản bộ máy, đội ngũ cán bộ, điều hành các chính sách của chính quyền… Theo đó, các thể chế từ Trung ương đến Thành phố cần được tiếp tục hoàn thiện, từ các văn bản của Đảng đến văn bản của chính quyền, chú trọng các thể chế về phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới, cách thức thể chế hóa các văn bản của Đảng thành quy định pháp luật; hoàn thiện hệ thống pháp luật từ Trung ương đến địa phương, trong đó hoàn thiện các văn bản có tính nội bộ Thành phố về phân định thẩm quyền, chế độ, chính sách của chính quyền hai cấp… để từ đó, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền quản trị hiện đại mà Thành phố đang hướng tới.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Đinh Quang Hà (2024). Vai trò của Đảng trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 232, tr.47-50

4. Quốc hội Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013). Các bản Hiến pháp Việt Nam.

5. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-doi-moi-manh-me-phuong-thuc-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-yeu-cau-cap-bach-cua-giai-doan-cach-mang-moi

6. Việc thể chế hóa tư tưởng chỉ đạo về vai trò lãnh đạo của Đảng và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp. https://daibieunhandan.vn/viec-the-che-hoa-tu-tuong-chi-dao-ve-vai-tro-lanh-dao-cua-dang-va-nguyen-tac-to-chuc-quyen-luc-nha-nuoc-trong-hien-phap-10340936.html