ThS. Tài Lê Nhả Mi
Trường Đại học Trà Vinh
(Quanlynhanhuoc.vn) – Bài viết phân tích và so sánh chính sách phát triển kinh tế biển của Việt Nam và Singapore trên ba phương diện: (1) Chính sách xây dựng chiến lược phát triển biển; (2) Chính sách phát triển các ngành kinh tế biển; (3) Chính sách về phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Việt Nam xây dựng khung chính sách kinh tế biển theo hướng tổng thể, đa mục tiêu, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên không gian biển, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống cư dân ven biển. Trong khi đó, Singapore phát triển mô hình kinh tế biển tập trung, dựa trên cụm dịch vụ hàng hải, logistics và công nghệ biển hiện đại, với mô hình quản trị tinh gọn do Cơ quan Hàng hải và Cảng biển Singapore (MPA) điều phối. Trên cơ sở so sánh, bài viết đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế biển của Việt Nam theo hướng phát huy lợi thế tài nguyên, không gian biển; đồng thời, tăng cường dịch vụ biển giá trị gia tăng, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Từ khóa: Phát triển kinh tế biển; đa ngành kinh tế biển; tài nguyên không gian biển; bảo vệ môi trường; Việt Nam, Singapore.
1. Mở đầu
Kinh tế biển giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển bền vững của nhiều quốc gia ven biển, bởi biển không chỉ cung cấp tài nguyên, mà còn là không gian phát triển thương mại, logistics, giao thông hàng hải và các ngành dịch vụ giá trị gia tăng. Báo cáo The State of World Fisheries and Aquaculture của FAO (2022)1 khẳng định các ngành kinh tế biển và ven biển đang đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu và tạo sinh kế cho hàng trăm triệu người trên thế giới.
Việt Nam với đường bờ biển dài khoảng 3.260 km và hơn 3.000 đảo, vùng biển rộng hơn 1 triệu km², kinh tế biển đã và đang trở thành một trong những động lực tăng trưởng quan trọng. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) xác định rõ mục tiêu đến năm 2030, đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển. Các chính sách trọng tâm bao gồm phát triển hệ thống cảng biển, dịch vụ logistics, thủy sản bền vững, năng lượng tái tạo ngoài khơi và du lịch biển.
Đối với Singapore, dù diện tích lãnh thổ nhỏ và nguồn tài nguyên biển không nhiều, nhưng quốc gia này đã trở thành một trong những trung tâm hàng hải hàng đầu thế giới. Theo Cơ quan Hàng hải và Cảng biển Singapore (Maritime and Port Authority of Singapore – MPA), ngành hàng hải đóng góp khoảng 7% GDP và tạo hơn 170.000 việc làm trực tiếp và gián tiếp2.
Chính sách phát triển kinh tế biển của Singapore tập trung vào việc hiện đại hóa cảng biển, xây dựng trung tâm dịch vụ hàng hải quốc tế, đầu tư công nghệ số và logistics xanh, thể hiện rõ trong các chiến lược Kế hoạch phát triển hàng hải Singapore và Chương trình chuyển đổi hàng hải.
Chính vì sự khác biệt sâu sắc về điều kiện tự nhiên, mô hình tăng trưởng và cách tiếp cận chính sách giữa hai quốc gia mà việc so sánh chính sách phát triển kinh tế biển của Việt Nam và Singapore là cần thiết. Việt Nam theo mô hình “đa ngành kinh tế biển” gắn với tài nguyên và không gian biển rộng lớn, trong khi Singapore theo mô hình “dịch vụ hàng hải – cảng biển – công nghệ biển” với mức độ quản trị cao và chiến lược hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việc nghiên cứu so sánh hai mô hình này sẽ giúp nhận diện các điểm tương đồng và khác biệt trong định hướng chính sách phát triển kinh tế biển; từ đó, rút ra những kinh nghiệm hữu ích nhằm hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế biển của Việt Nam theo hướng hiệu quả và bền vững hơn.
2. Các chính sách phát triển kinh tế biển của Việt Nam
Một là, chính sách thể hiện chiến lược phát triển biển.
Các chính sách chiến lược biển của Việt Nam tập trung chủ yếu vào việc phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, kết hợp với bảo vệ môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chiến lược cốt lõi là Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cùng với việc triển khai Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Các vấn đề trọng tâm được các chiến lược này tập trung giải quyết, bao gồm:
(1) Tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý, chính sách, hoàn thiện mô hình quản lý tổng hợp, thống nhất về biển dựa trên hệ sinh thái để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển. Một nhiệm vụ trọng tâm là khẩn trương xây dựng và ban hành Quy hoạch không gian biển quốc gia3.
(2) Định hướng phát triển đột phá 6 ngành kinh tế biển ưu tiên đến năm 2030, bao gồm: Du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải (trọng tâm là cảng biển và dịch vụ vận tải biển); khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản (chuyển sang công nghiệp, công nghệ cao, giảm khai thác gần bờ); công nghiệp ven biển (ưu tiên công nghệ cao, thân thiện môi trường); và năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới (như điện gió ngoài khơi, dược liệu biển).
(3) Tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển quan trọng như rạn san hô, rừng ngập mặn. Các chính sách cũng đặt mục tiêu ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt là giảm thiểu rác thải nhựa đại dương. Đồng thời, nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
(4) Giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Các chiến lược yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và tăng cường hợp tác quốc tế, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).
(5) Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm an toàn cho cư dân vùng ven biển và hải đảo. Khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là nhân tố đột phá, ưu tiên đầu tư cho điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học biển và đào tạo nhân lực chuyên môn sâu.
Hai là, chính sách phát triển các ngành kinh tế biển.
Các chính sách quốc gia mà Việt Nam đã ban hành trong thời gian qua đều hướng đến mục tiêu chung là xây dựng đất nước trở thành quốc gia biển mạnh vào năm 2045, với nền kinh tế biển phát triển hiện đại, đồng bộ và bền vững, gắn kết chặt chẽ với quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường.
Về ngành Thủy sản, Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có nội dung hướng tới việc biến ngành này thành ngành kinh tế quan trọng, quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh cao. Trọng tâm là bảo vệ và phục hồi nguồn lợi thủy sản, chuyển đổi cơ cấu khai thác theo hướng bền vững, và phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển thành sản xuất hàng hóa lớn. Chính phủ ưu tiên nguồn lực để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ngành thủy sản.
Định hướng phát triển của ngành du lịch được thể hiện thông qua Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030. Quyết định đã khẳng định chính sách xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn và ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo và du lịch thể thao. Các giải pháp tập trung vào hoàn thiện thể chế và phát triển hạ tầng kết nối hiện đại (bao gồm nâng cấp cảng hàng không và mở rộng bến cảng biển) để tạo điều kiện phát triển du lịch bền vững.
Đối với ngành điện gió, Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, xác định cần đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, nhằm bảo đảm an ninh năng lượng và chuyển đổi mô hình kinh tế sang hướng xanh, kinh tế tuần hoàn. Chính sách đặt mục tiêu cụ thể về công suất điện gió ngoài khơi (dự kiến đạt 6.000 MW vào năm 2030), nhấn mạnh vai trò của nguồn năng lượng này trong dài hạn.
Đối với lĩnh vực cảng biển, chính sách tập trung vào Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển nhằm xây dựng hạ tầng hàng hải hiện đại và chuyên môn hóa. Ưu tiên huy động vốn đa dạng (ngoài ngân sách) để phát triển các khu bến cửa ngõ quốc tế và các cảng biển xanh, tiết kiệm năng lượng. Nội dung này được thể hiện trong Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Nhìn chung, các chính sách thể hiện sự chuyển dịch mạnh mẽ sang phát triển kinh tế biển dựa trên khoa học – công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và tận dụng hiệu quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhằm tối đa hóa giá trị kinh tế đi đôi với bảo tồn sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ba là, chính sách về phát triển bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu.
Việt Nam xác định chủ động ứng phó biến đổi khí hậu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050 đặt mục tiêu kép: Giảm mức độ tổn thương và tăng khả năng chống chịu của các hệ thống tự nhiên/kinh tế/xã hội trước biến đổi khí hậu, đồng thời cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” (Net-zero) vào năm 2050. Các biện pháp thích ứng bao gồm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thích ứng thông minh và phát triển hạ tầng chống chịu biến đổi khí hậu (như công trình phòng chống thiên tai, ngăn triều cường).
Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2050 hướng tới đưa Việt Nam thành quốc gia biển mạnh, dựa trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu/nước biển dâng.
Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ đến năm 2050 tập trung vào việc phân bổ hợp lý khai thác tài nguyên, giải quyết mâu thuẫn giữa các ngành, và bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái biển (như rạn san hô, rừng ngập mặn). Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 đặt mục tiêu giảm 75% rác thải nhựa trên biển và đại dương4.
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2050 thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm tăng cường năng lực chống chịu và hướng tới nền kinh tế trung hòa các-bon. Các chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng, phát triển nông nghiệp, công nghiệp và đô thị sinh thái thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu.
4. Các chính sách phát triển kinh tế biển của Singapore
Thứ nhất, chính sách thể hiện chiến lược phát triển biển
Singapore xây dựng chiến lược phát triển biển thông qua một số văn bản định hướng trung tâm do Cơ quan Hàng hải và Cảng biển Singapore (MPA) chủ trì. Trước hết, Bản đồ chuyển đổi nành vận tải biển (Sea Transport Industry Transformation Map – ITM) công bố năm 2018 và cập nhật năm 2022 đặt mục tiêu duy trì vị thế Singapore như một trung tâm hàng hải toàn cầu, với trọng tâm là kết nối quốc tế, đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực biển5.
Tiếp đó, Chiến lược Trung tâm Hàng hải Quốc tế đến năm 2030 (IMC 2030 Strategic Review) do MPA và Ủy ban tư vấn IMC 2030 ban hành năm 2017 xác định tầm nhìn đưa Singapore trở thành “trung tâm dịch vụ hàng hải quốc tế” gắn với logistics, tài chính và dịch vụ hỗ trợ biển chất lượng cao6.
Về định hướng phát triển bền vững, Sáng kiến Hàng hải Xanh Singapore (Maritime Singapore Green Initiative – MSGI) được triển khai từ năm 2011 nhằm thúc đẩy cảng xanh, tàu xanh và công nghệ xanh trong hoạt động hàng hải7.
Ở cấp quốc gia, Kế hoạch Singapore Xanh 2030 (Singapore Green Plan 2030) xác định ngành hàng hải là lĩnh vực ưu tiên trong mục tiêu giảm phát thải và chuyển đổi xanh8. Bên cạnh đó, kế hoạch khử carbon cho hàng hải Singapore đến 2050 (Maritime Singapore Decarbonisation Blueprint 2050) tiếp tục định hướng dài hạn cho phát triển biển theo hướng bền vững và phát thải thấp9.
Tổng hợp các chiến lược trên cho thấy, Singapore theo đuổi mô hình quản trị biển thống nhất, lấy MPA làm cơ quan điều phối trung tâm, bảo đảm sự liên kết xuyên suốt giữa chiến lược ngành (như ITM và IMC 2030), các sáng kiến xanh (MSGI), và chiến lược phát triển bền vững cấp quốc gia (Kế hoạch Singapore xanh 2030). Các chính sách này nhấn mạnh ba hướng chủ đạo: (1) duy trì và nâng cao vị thế Singapore như một trung tâm hàng hải và logistics quốc tế có khả năng cạnh tranh cao; (2) thúc đẩy đổi mới, số hóa và phát triển nguồn nhân lực để gia tăng giá trị của chuỗi dịch vụ hàng hải; (3) tăng tốc chuyển đổi xanh, phát triển cảng biển, đội tàu, dịch vụ hàng hải bền vững theo chuẩn mực quốc tế.
Thứ hai,chính sách phát triển các ngành kinh tế biển.
Singapore phát triển các ngành kinh tế biển theo mô hình “dịch vụ – logistics – cảng biển – công nghệ”, phù hợp với điều kiện hạn chế về tài nguyên tự nhiên. Các chính sách ngành được triển khai dưới khuôn khổ chiến lược MaritimeSG do MPA chủ trì. Trọng tâm trước hết là phát triển cụm cảng biển và logistics quốc tế, với hệ thống cảng được tự động hóa cao, năng lực trung chuyển lớn và quy trình quản lý hiện đại, nằm trong định hướng của Bản đồ chuyển đổi ngành vận tải biển10.
Cùng với đó, Singapore thúc đẩy mạnh mẽ cụm dịch vụ hàng hải quốc tế (International Maritime Centre – IMC) bao gồm tài chính hàng hải, bảo hiểm, trọng tài, môi giới vận tải, quản lý đội tàu và dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, qua đó hình thành hệ sinh thái hàng hải có giá trị gia tăng cao và thu hút hơn 170 doanh nghiệp hàng hải toàn cầu đặt trụ sở tại Singapore11.
Bên cạnh các ngành cốt lõi trên, Singapore cũng phát triển du thuyền và du lịch biển cao cấp, với các bến cảng du thuyền và khu phức hợp, như Marina Bay Cruise Centre và Sentosa, đóng vai trò bổ trợ cho dịch vụ hàng hải và logistics du lịch12. Ngoài ra, Singapore chú trọng ngành công nghệ hàng hải thông qua chuỗi chương trình Maritime Innovation & Technology cùng các dự án về số hóa cảng biển, tàu tự hành và các giải pháp an toàn hàng hải thông minh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế biển trong bối cảnh chuyển đổi số.
Nhìn chung, chính sách của Singapore tập trung vào việc phát triển cụm dịch vụ hàng hải chất lượng cao, logistics biển toàn cầu và đổi mới công nghệ, tạo nên mô hình kinh tế biển “hậu tài nguyên”, dựa trên tri thức và dịch vụ thay vì khai thác tài nguyên tự nhiên.
Thứ ba,chính sách về bền vững và thích ứng biển đổi khí hậu.
Singapore nhận thức rõ rằng biến đổi khí hậu, ô nhiễm biển và phát thải khí nhà kính là thách thức toàn cầu, do đó, ngay từ đầu thập kỷ 10, thế kỷ XXI họ đã xây dựng một khung chính sách, chiến lược tổng thể nhằm hướng tới phát triển biển và vận tải biển theo tiêu chí “xanh, bền vững, thích ứng”.
Singapore xác định phát triển xanh và nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu là định hướng chiến lược xuyên suốt trong quản lý biển và hàng hải. Kế hoạch Singapore xanh 2030 được Chính phủ công bố năm 2021 đưa ra tầm nhìn chuyển đổi toàn diện theo năm trụ cột: thành phố trong thiên nhiên, sống bền vững, chuyển đổi năng lượng, kinh tế xanh và tương lai kiên cường. Các mục tiêu này đặt cơ sở cho việc ứng phó biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường biển; đồng thời, củng cố khả năng chống chịu trước các rủi ro khí hậu13.
Trong lĩnh vực hàng hải, Sáng kiến hàng hải canh Singapore do Cơ quan hàng hải và Cảng biển Singapore triển khai từ năm 2011 là chính sách trọng tâm nhằm thúc đẩy cảng xanh, đội tàu xanh và công nghệ xanh. Chương trình này hỗ trợ các doanh nghiệp hàng hải chuyển đổi sang công nghệ sạch, giảm phát thải và giảm ô nhiễm biển, qua đó góp phần thực hiện cam kết quốc gia về phát triển bền vững14.
Bên cạnh đó, Kế hoạch khử carbon cho hàng hải Singapore đến năm 2050 được công bố năm 2022 đưa ra lộ trình dài hạn cho ngành hàng hải nhằm đạt các mục tiêu phát thải thấp. Kế hoạch xác định các nhóm giải pháp chính: phát triển cảng biển xanh, đội tàu sử dụng nhiên liệu mới, hạ tầng tiếp nhiên liệu sạch, tăng cường nghiên cứu – phát triển, thúc đẩy tài chính xanh và nâng cao năng lực giám sát môi trường biển.
Ngoài ra, Singapore đẩy mạnh các chương trình quản lý chất thải nhựa và rác thải đại dương nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển. Cơ quan môi trường quốc gia (NEA) tăng cường các biện pháp giảm đồ nhựa dùng một lần, phát triển chương trình tái chế và quản lý chất thải nhằm hạn chế dòng rác thải đổ ra biển15.
Tổng thể các chính sách trên cho thấy, Singapore định hướng phát triển kinh tế biển gắn với chuyển đổi xanh, giảm phát thải và quản lý bền vững tài nguyên biển; đồng thời, chú trọng nâng cao khả năng chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu, phù hợp với các cam kết quốc tế và mô hình quốc gia biển bền vững.
5. So sánh chính sách phát triển kinh tế biển của Việt Nam và Singapore
5.1. Điểm giống nhau.
Việt Nam và Singapore đều xác định ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững là định hướng chiến lược quan trọng trong quản lý biển. Cả hai quốc gia cùng đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy chuyển đổi xanh, phát triển cảng biển và hoạt động hàng hải thân thiện môi trường; đồng thời, tăng cường khả năng chống chịu trước rủi ro khí hậu. Hai nước cũng chú trọng kiểm soát ô nhiễm, đặc biệt là rác thải nhựa đại dương, lồng ghép yếu tố bền vững vào các quy hoạch, chiến lược biển dài hạn.
5.2. Điểm khác nhau
Sự khác biệt lớn nhất giữa Việt Nam và Singapore nằm ở mô hình phát triển kinh tế biển và điều kiện tự nhiên. Việt Nam xây dựng chiến lược biển theo cách tiếp cận toàn diện và đa mục tiêu, bao trùm phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên không gian biển, bảo vệ hệ sinh thái, an ninh chủ quyền và nâng cao đời sống cư dân ven biển. Trong khi đó, Singapore tập trung chiến lược biển vào việc củng cố vai trò trung tâm hàng hải quốc tế, với mô hình quản trị tinh gọn do MPA điều phối và trọng tâm là logistics, dịch vụ hàng hải và đổi mới công nghệ.
Về phát triển ngành, Việt Nam ưu tiên cấu trúc kinh tế biển đa ngành dựa trên tài nguyên (thủy sản, dầu khí, năng lượng tái tạo, du lịch, công nghiệp ven biển…); đồng thời, hiện đại hóa hạ tầng hàng hải. Ngược lại, Singapore không phát triển các ngành khai thác tài nguyên biển mà hướng vào cụm ngành dịch vụ biển giá trị cao, cảng biển tự động hóa và hệ sinh thái logistics – dịch vụ hàng hải toàn cầu.
Trong lĩnh vực bền vững và ứng phó biến đổi khí hậu, Việt Nam nhấn mạnh bảo tồn hệ sinh thái biển, phục hồi tài nguyên, quản lý vùng bờ và bảo vệ sinh kế cộng đồng trước rủi ro khí hậu. Singapore lại chú trọng giảm phát thải trong vận tải biển, phát triển cảng xanh, tàu xanh, quản lý chất thải và thúc đẩy công nghệ khử carbon. Như vậy, Việt Nam đi theo hướng “bảo tồn – thích ứng sinh thái”, còn Singapore theo hướng “công nghệ xanh – giảm phát thải” phù hợp với đặc thù của mỗi quốc gia.
6. Hàm ý chính sách cho Việt Nam
Thứ nhất, tiếp tục phát huy điểm mạnh của Việt Nam về tầm nhìn chiến lược biển mang tính tổng thể. Việt Nam đã xây dựng được khung chính sách biển rộng và bao quát hơn nhiều quốc gia trong khu vực. Cần duy trì cách tiếp cận liên ngành này; đồng thời, hoàn thiện hơn nữa cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong thực thi quy hoạch không gian biển.
Thứ hai, học hỏi kinh nghiệm Singapore trong phát triển cụm dịch vụ hàng hải giá trị gia tăng. Bên cạnh các ngành dựa trên tài nguyên, Việt Nam cần thúc đẩy mạnh mẽ các dịch vụ hỗ trợ hàng hải, như: bảo hiểm, logistics số, trọng tài hàng hải và quản lý đội tàu, những lĩnh vực đang còn dư địa lớn và có khả năng tạo giá trị cao.
Thứ ba, đẩy nhanh quá trình số hóa và tự động hóa cảng biển. Singapore cho thấy việc ứng dụng công nghệ cao trong quản lý cảng, vận hành logistics và giám sát hàng hải giúp giảm chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh. Việt Nam cần ưu tiên đầu tư vào cảng thông minh, hạ tầng số, quản lý vận hành bằng bigdata và trí tuệ nhân tạo.
Thứ tư, tăng cường chuyển đổi xanh nhưng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Việt Nam có lợi thế về hệ sinh thái biển đa dạng và tiềm năng năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi. Việt Nam cần tiếp tục phát triển theo hướng xanh – tuần hoàn, song song với bảo vệ sinh kế người dân và phục hồi hệ sinh thái biển, không sao chép hoàn toàn mô hình tập trung công nghệ của Singapore.
Thứ năm, củng cố năng lực cạnh tranh quốc tế thông qua nguồn nhân lực chất lượng cao. Singapore thành công nhờ tập trung vào đào tạo nhân lực biển chuyên nghiệp, đây là bài học quan trọng. Việt Nam cần đẩy mạnh đào tạo nhân lực biển đa ngành, từ kỹ thuật công nghệ đến pháp lý, tài chính, quản lý biển.
7. Kết luận
Qua phân tích đối chiếu chính sách phát triển kinh tế biển giữa Việt Nam và Singapore có thể thấy, cả hai quốc gia đều nhận thức rõ vai trò then chốt của biển đối với tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống chiến lược biển mang tính tổng thể và toàn diện, bao quát từ phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên không gian biển, bảo vệ môi trường đến quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống cộng đồng ven biển. Đây là điểm mạnh nổi bật của Việt Nam, thể hiện tầm nhìn phát triển biển gắn với bối cảnh địa chính trị và điều kiện tự nhiên phức tạp của quốc gia có vùng biển rộng và đa dạng. Trong khi đó, Singapore phát triển mô hình kinh tế biển tập trung, dựa trên dịch vụ hàng hải logistics, công nghệ hiện đại, phù hợp với lợi thế so sánh của một đảo quốc quy mô nhỏ nhưng đóng vai trò trung tâm hàng hải toàn cầu.
Sự khác biệt trong điều kiện tự nhiên, cấu trúc kinh tế và vị thế địa lý đã dẫn đến sự khác nhau về mô hình phát triển, nhưng đồng thời cũng tạo ra những điểm tương đồng quan trọng: cả hai quốc gia đều ưu tiên phát triển hạ tầng hàng hải hiện đại, thúc đẩy chuyển đổi xanh, ứng dụng công nghệ tiên tiến và củng cố năng lực cạnh tranh của chuỗi giá trị biển. Việc so sánh hai mô hình cho thấy, Việt Nam vừa có lợi thế về không gian tài nguyên biển, vừa cần tận dụng bài học từ Singapore để phát triển mạnh hơn các ngành dịch vụ biển chất lượng cao, qua đó nâng tầm vị thế quốc gia biển trong khu vực.
Chú thích:
1. FAO (2022). https://www.fao.org/3/cc0461en/online/cc0461en.html.
2. https://www.mpa.gov.sg/who-we-are/maritime-singapore,
3. Quốc hội (2024). Nghị quyết số 139/2024/QH15 ngày 28/6/2024 về quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
4. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04/12/2019 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.
5, 10. Sea Transport Industry Transformation Map (ITM) https://www.smf.com.sg/sea-transport-industry-transformation-map itm/?utm_source.
6. International Maritime Centre 2030 – Strategic review. https://www.mpa.gov.sg/docs/mpalibraries/media-releases/imc-2030-strategic-review-report.pdf?utm-source.
7. Opportunities in Singapore – Trade report for the Ministry of Foreign Affairs of Republic of Estonia. https://www.vm.ee/sites/default/files/documents/2025-03/Singapore%20Strategy_Maritime%2C%20MarinTech.pdf?utm_source.
8, 13. Our Key Targets for the Green Plan. https://www.greenplan.gov.sg/targets/?utm_source.
9. Maritime Singapore Decarbonisation Blueprint: Working Towards 2050. https://www.mpa.gov.sg/maritime-singapore/sustainability/maritime-singapore-decarbonisation-blueprint?utm_source.
11. What Maritime Singapore Offers. https://www.mpa.gov.sg/maritime-singapore/what-maritime-singapore-offers?utm_source.
12. Essential travel information. https://www.visitsingapore.com/travel-tips/essential-travel-information.
14. Maritime Singapore Green Initiative. https://www.mpa.gov.sg/maritime-singapore/sustainability?utm_source.
15. Reducing our use of disposables. https://www.nea.gov.sg/our-services/waste-management/3r-programmes-and-resources/reducing-our-use-of-disposables?utm_source.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018). Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Chính phủ (2023). Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 03/4/2023 phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
3. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030.
4. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
5. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
6. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/01/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.
7. Thủ tướng Chính phủ (2023). Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
8. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 1117/QĐ-TTg ngày 07/10/2024 phê duyệt Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
9. Nguyễn Đình Bình (2017). Giải pháp phát triển kinh tế biển Kiên Giang. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ, tập 20, số Q2/2017.
10. Nguyễn Thị Ngọc Mai, Trần Thị Hường (2020). Tìm hiểu kinh tế biển. H. Từ điển học và Bách khoa thư.



