(QLNN) – Để đáp ứng những yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Học viện Hành chính Quốc gia – với tư cách là “đơn vị sự nghiệp công lập hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ Nội vụ” cần xác lập những định hướng xây dựng và chiến lược phát triển một cách cơ bản, lâu dài, trong đó trước mắt là cho giai đoạn 2025 – 2040.
Trong công tác xây dựng và thực hiện chiến lược về cán bộ (cán bộ, công chức, viên chức – CBCCVC) cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, đồng thời coi đó là yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trước yêu cầu “xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam[1], việc không ngừng nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ CBCCVC là giải pháp quan trọng hàng đầu. Bởi chỉ có thông qua đó mới góp phần xây dựng được đội ngũ CBCCVC chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu CNH HĐH, phù hợp với điều kiện thực hiện chính sách tinh giản biên chế của Đảng, Nhà nước.
Đặc biệt, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD), góp phần xây dựng đội ngũ CBCCVC chuyên nghiệp có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, ngày 25/01/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 163/QĐ-TTg phê duyệt Đề án ĐTBD CBCCVC giai đoạn 2016 – 2025, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: “Xây dựng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia trở thành những trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm khu vực”.
Trong bối cảnh chung như vậy, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm hay về ĐTBD ở trong nước, đồng thời, chủ động nghiên cứu kinh nghiệm tiên tiến của các nước, áp dụng phù hợp vào thực tiễn của Việt Nam, Học viện Hành chính Quốc gia với tư cách là “đơn vị sự nghiệp công lập hạng đặc biệt, trực thuộc Bộ Nội vụ”[2] cần xác lập những định hướng xây dựng và phát triển một cách cơ bản, lâu dài, trong đó trước mắt là cho giai đoạn 2025 – 2040. Theo đó, tầm nhìn, sứ mệnh, quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ hoạt động cụ thể của Học viện cho giai đoạn này nên được xác định như sau:
Tầm nhìn
Học viện Hành chính Quốc gia phải thực sự trở thành cơ sở ĐTBD CBCCVC của quốc gia có uy tín, thương hiệu và là trung tâm quốc gia thực hiện các chức năng ĐTBD năng lực, kiến thức, kỹ năng về hành chính, về lãnh đạo, quản lý cho CBCCVC; đào tạo nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học hành chính (KHHC) và tư vấn cho Bộ Nội vụ trong lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước (QLNN), đồng thời xây dựng đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên chuyên ngành hành chính và QLNN; nghiên cứu KHHC và tư vấn cho Chính phủ trong lĩnh vực hành chính và QLNN đạt chuẩn chất lượng cao, từng bước tiếp cận với đẳng cấp khu vực với mục tiêu đến năm 2030 phải trở thành một thương hiệu ngang tầm khu vực Đông Nam Á trong việc cung cấp chất lượng ĐTBD CBCCVC tốt nhất, giá thành cạnh tranh nhất; có khả năng liên kết, liên thông với các cơ sở ĐTBD CBCCVC có đẳng cấp của thế giới.
Bên cạnh đó, Học viện cũng phải thực sự trở thành trung tâm ĐTBD quốc gia để đào tạo ra các thế hệ học viên năng động, sáng tạo, chủ động, biết nghĩ, biết làm, có phẩm chất chính trị vững vàng, giàu tính nhân văn, quý trọng con người, có trách nhiệm với quốc gia, cộng đồng và xã hội.
Sứ mệnh
Với tầm nhìn đó, với truyền thống 60 năm xây dựng, phát triển và với uy tín của một cơ sở ĐTBD CBCCVC trọng điểm, đầu ngành, Học viện phải có sứ mệnh đi đầu trong việc sáng tạo, truyền bá tri thức và đào tạo nguồn nhân lực QLNN chất lượng cao về khoa học quản lý và hành chính, phục vụ nền công vụ, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sứ mệnh đó cần được thể hiện trên nhiều phương diện, cụ thể:
Thứ nhất, trở thành trung tâm nghiên cứu và giảng dạy KHHC và QLNN, có đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển ĐTBD CBCCVC nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung.
Thứ hai, đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu các vấn đề về quản trị nhà nước hiện đại và nghiên cứu thị trường, đáp ứng nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp và nền kinh tế.
Thứ ba, đến năm 2030, Học viện phải trở thành cơ sở ĐTBD ở tầm cao mới, có uy tín trong lĩnh vực “nghiên cứu KHHC, ĐTBD và tư vấn về QLNN”, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền công vụ ở tầm mức khu vực và quốc tế.
Thứ tư, Học viện cam kết cung cấp cho người học những chương trình ĐTBD chuyên sâu cả về lý thuyết và ứng dụng thực tiễn trong lĩnh vực QLNN, được xếp hạng tốt nhất tại Việt Nam, cam kết bảo đảm cho học viên khả năng tìm kiếm được các kiến thức và chuyển đổi chúng thành các hoạt động hữu ích thuộc các lĩnh vực quản lý trong môi trường cạnh tranh mang tính toàn cầu.
Quan điểm chỉ đạo
Trước bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới, đồng thời căn cứ trên cơ sở các nghị quyết của Trung ương về chiến lược cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh CNH HĐH đất nước, quan điểm chỉ đạo hoạt động ĐTBD CBCCVC nói chung và việc xây dựng Học viện nói riêng cần được quán triệt ở các nội dung chủ yếu sau:
(1) Nhận thức rõ ràng về vai trò, nhiệm vụ trong ĐTBD CBCCVC, Học viện cần định hướng xây dựng và phát triển phù hợp cũng như đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược phát triển đội ngũ CBCCVC của đất nước tương xứng với sự phát triển và những thách thức đặt ra của nền kinh tế tri thức.
(2) ĐTBD CBCCVC phải hướng tới mục tiêu không ngừng nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ CBCCVC. Đây cũng là giải pháp quan trọng hàng đầu góp phần xây dựng đội ngũ CBCCVC chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu CNH HĐH, phù hợp với điều kiện thực hiện chính sách tinh giản biên chế của Đảng, Nhà nước.
(3) Quán triệt và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh: “học để làm việc”, “làm việc gì thì học để làm việc ấy cho tốt”[3], công tác ĐTBD CBCCVC phải thực sự góp phần tích cực thúc đẩy việc xây dựng xã hội học tập trong nền công vụ, nơi đề cao tinh thần học và tự học; tăng cường nhận thức về trách nhiệm học tập suốt đời nhằm không ngừng nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ CBCCVC. Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện và hỗ trợ CBCCVC được cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp và kinh nghiệm làm việc để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác.
(4) Từ việc trang bị kiến thức và kỹ năng cho CBCCVC, hướng tới tạo lập thái độ công vụ thông qua việc giáo dục tinh thần – đạo đức dựa trên cơ sở giáo dục các giá trị nhân văn. Tư duy và nhân cách có vai trò to lớn và quan trọng định hướng cá nhân nhằm xác định các giá trị nhân văn, trong đó có các giá trị nhân văn công vụ. Các giá trị nhân văn sẽ trở thành các giá trị nền tảng của quá trình hình thành và phát triển nhân cách người CBCCVC với tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ đáp ứng những yêu cầu của nền công vụ “vì dân”.
(5) Trên cơ sở hệ thống thể chế thống nhất và đồng bộ, căn cứ hệ thống chính sách khuyến khích CBCCVC học tập và tự học để không ngừng nâng cao trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao, Học viện cùng các cơ sở ĐTBD khác trong cả nước triển khai hoạt động ĐTBD CBCCVC, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và yêu cầu hội nhập quốc tế.
(6) Tổ chức hệ thống bộ máy và nhân sự gọn nhẹ, khoa học, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ ĐTBD. Phát huy mọi nguồn lực, trong đó dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn ngoại lực để tiếp tục nâng cao và mở rộng vị thế ở trong nước và quốc tế, Học viện cần được phát triển toàn diện, vững chắc, bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan phát triển Học viện trở thành cơ sở ĐTBD CBCCVC hàng đầu ở Việt Nam và tiến tới đạt trình độ khu vực và quốc tế.
(7) Nhà nước cần ưu tiên tăng cường đầu tư thỏa đáng với một nguồn lực tài chính vượt trội cho nghiên cứu và giảng dạy KHHC và QLNN nhằm nâng cao chất lượng ĐTBD CBCCVC, hướng tới bảo đảm “tính chuyên môn hóa nghề nghiệp cao” của nền công vụ với đội ngũ CBCCVC, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của công cuộc CNH HĐH đất nước.
Nhiệm vụ
Để hiện thực hóa tầm nhìn, sứ mệnh đã đặt ra, trên cơ sở chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ cho thời kỳ đẩy mạnh CNH HĐH đất nước, Học viện cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, tập trung rà soát lại chiến lược phát triển sau 60 năm xây dựng và trưởng thành, từ đó đánh giá những thành tựu, tồn tại, hạn chế và tập trung vào chiến lược phát triển Học viện đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030 và dài hơn. Theo đó, đổi mới cơ bản và toàn diện hoạt động của Học viện với những nội dung chính sau: đổi mới cơ cấu tổ chức – nhân sự; nội dung, phương pháp và quy trình ĐTBD đạt chuẩn kiểm định chất lượng của quốc gia; bảo đảm và liên tục nâng cao chất lượng ĐTBD; phát triển mạnh về chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ; đổi mới công tác quy hoạch, ĐTBD và sử dụng giảng viên, cán bộ quản lý;
Cùng với đó, phát triển một số hoạt động dịch vụ cần thiết hỗ trợ cho kỹ năng phát triển năng lực đạo đức cá nhân và nghề nghiệp, thích ứng tốt trong bối cảnh toàn cầu hóa; đổi mới tổ chức, triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ; đổi mới việc huy động các nguồn lực và cơ chế tài chính; đổi mới cơ chế quản lý ĐTBD; tiếp tục hội nhập, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế, xây dựng một số khoa học về lãnh đạo, quản lý đạt trình độ quốc tế; nâng cao sức cạnh tranh trong ĐTBD. Cần nghiên cứu và xác định quy mô và cơ cấu ĐTBD của Học viện cho giai đoạn 2016 – 2025, định hướng tầm nhìn 2035 – 2040 phát triển cùng cơ chế tự chủ với các tiêu chí đẳng cấp thế giới: tập trung nhân tài, nguồn kinh phí dồi dào, quản trị và quản lý phù hợp.
Hai là, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức trong Học viện. Bảo đảm việc thường xuyên cập nhật nội dung các văn kiện, nghị quyết, đường lối của Đảng; cập nhật nâng cao trình độ lý luận chính trị theo quy định; luôn tăng cường chất lượng công tác tuyên truyền, vận động đội ngũ cán bộ, giảng viên trên cơ sở nắm bắt kịp thời tình hình diễn biến tư tưởng của cán bộ, giảng viên.
Ba là, nâng cao năng lực quản lý công tác ĐTBD, trong đó, trước hết, cần quán triệt nhận thức và trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị thuộc và trực thuộc (khoa, ban), từ đó, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch định kỳ bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng và phương pháp quản lý cho công chức, viên chức tham mưu quản lý công tác ĐTBD của Học viện.
Chú trọng cải cách hành chính trong Học viện. Mỗi cán bộ, giảng viên, người lao động của Học viện phải được giáo dục ý thức về kỷ luật, kỷ cương làm việc trong công sở, biết tuân thủ giờ giấc và sử dụng giờ giấc có hiệu quả cho công vụ, luôn có tinh thần sáng tạo, cầu tiến… Cùng với đó, thực hiện nghiêm túc kỷ luật kết hợp với các hình thức tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Tiến tới nghiên cứu xây dựng và ban hành bộ tiêu chí bảo đảm và đánh giá chất lượng ĐTBD phù hợp với điều kiện Việt Nam, tiến tới đáp ứng thông lệ quốc tế.
Bốn là, đổi mới tổ chức ĐTBD CBCCVC theo hướng “kỹ trị”, chứ không phải theo kiểu “quan trị”. Các hoạt động giảng dạy cần gắn lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành, gắn những tiêu chuẩn quốc tế vào quy trình ĐTBD, chuẩn bị cho CBCCVC những kiến thức, kỹ năng cần thiết để hoạt động trong môi trường quốc tế, như: năng lực giao tiếp công việc bằng một ngoại ngữ khác, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp trong công việc với người nước ngoài, kỹ năng đàm phán, tranh luận…
Trước mắt, đến năm 2020, cần triển khai xây dựng các chương trình ĐTBD về những lĩnh vực liên quan đến hội nhập quốc tế, bảo đảm cho CBCCVC am hiểu luật pháp và tập quán giao thương quốc tế, được trang bị các kỹ năng thực thi công vụ trong giải quyết các vấn đề quốc tế, sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ, có hành vi ứng xử theo đúng chuẩn mực quốc tế về đạo đức nghề nghiệp.
Năm là, đối với hoạt động bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng QLNN theo tiêu chuẩn chức danh công chức; tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý, bên cạnh việc cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp quản lý chuyên ngành; kiến thức, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao; kiến thức pháp luật, văn hóa công sở, nâng cao ý thức đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức quốc phòng – an ninh theo các chương trình quy định cho CBCCVC; kiến thức, năng lực hội nhập quốc tế…, cần tăng cường bồi dưỡng những kỹ năng mềm cho CBCCVC.
Trong chương trình giảng dạy cần có những bài thử thách kỹ năng trong thực tiễn để đánh giá năng lực phán đoán, giải quyết vấn đề, bởi lẽ những kỹ năng đó không phải một sớm một chiều có thể thành thạo được mà cần có sự tôi luyện, mài giũa trong môi trường thực tế. Nội dung chương trình phải phát huy cao độ được tiềm lực của mỗi cá nhân với thói quen học tập suốt đời, liên tục học hỏi để có đầy đủ phẩm chất, năng lực, trình độ phục vụ tốt cho nền công vụ.
Sáu là, cần nghiên cứu, xác định và bồi dưỡng cho CBCCVC về các giá trị cốt lõi của nền công vụ, như:
– Tính chuyên nghiệp: năng lực, sự thành thạo và sự hợp tác tốt trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ nhằm bảo đảm một nền hành chính phục vụ.
– Xây dựng niềm tin: niềm tin được xây dựng trên cơ sở sự minh bạch và chuẩn mực đạo đức công vụ. Đội ngũ CBCCVC phải có được sự tin cậy của người dân, đồng thời làm việc trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau gắn với trách nhiệm của từng cá nhân trong thực thi công vụ.
– Tinh thần trách nhiệm: CBCCVC cần tận tụy và có trách nhiệm với những gì đã cam kết từ phương diện tập thể cũng như mỗi cá nhân.
– Tính quyết đoán và sáng tạo: mỗi CBCCVC phải luôn tin tưởng và sáng tạo trong việc thực hiện các công việc và nhiệm vụ của mình.
– Sự trung thành: đội ngũ cán bộ trung thành, trung thực, luôn cố gắng tối đa để duy trì sự liêm chính và triệt để tôn trọng những quy tắc đạo đức công vụ.
Bảy là, nghiên cứu và đề xuất biên soạn mới, biên soạn lại các chương trình ĐTBD… nhằm nâng cao chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn chức danh CBCCVC về lý luận chính trị, kiến thức quốc phòng – an ninh bảo đảm tính hệ thống, tính thứ bậc và sự phù hợp với vị trí công tác.
Do đó, cần nhanh chóng tiến hành rà soát, đánh giá chất lượng các chương trình bồi dưỡng kiến thức QLNN hiện đang sử dụng; tiến hành cập nhật, biên soạn lại (nếu cần thiết) bảo đảm tính khoa học, tính ứng dụng của các chương trình; hạn chế tối thiểu sự trùng lặp; nhất là đối với những chương trình bồi dưỡng ngắn ngày cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng theo nhu cầu; kỹ năng theo hướng “cầm tay chỉ việc”… Đặc biệt, cần tăng cường tổ chức biên soạn các chương trình bồi dưỡng về giá trị nhân văn công vụ, văn hoá công sở, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp.
Tám là, xây dựng đội ngũ giảng viên đạt chuẩn về trình độ chuyên môn phù hợp, thời gian kinh nghiệm hoạt động thực tiễn quản lý và có năng lực sư phạm, thường xuyên được cập nhật, nâng cao năng lực, trình độ và phương pháp sư phạm. Tăng cường mở rộng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng bảo đảm đảm nhiệm phần lớn thời lượng của các chương trình ĐTBD mà Học viện thực hiện.
Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy chế quy định trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp tham gia giảng dạy cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp và trao đổi kinh nghiệm quản lý, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ phù hợp với bộ, ngành, địa phương. Tiến tới tạo bước chuyển biến căn bản trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên QLNN với các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, có trình độ chuyên môn cao, ngang tầm khu vực, tiếp cận trình độ quốc tế.
Chín là, có cơ chế huy động các tổ chức, cá nhân có năng lực, uy tín nước ngoài tham gia giảng dạy cho các khóa ĐTBD, đặc biệt đối với các khóa cập nhật kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nâng cao năng lực hội nhập. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức hợp tác trong lĩnh vực ĐTBD, tích cực trao đổi “công nghệ ĐTBD CBCCVC” với các nước khu vực và các nước tiên tiến trên thế giới.
Mười là, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính. Một cơ sở ĐTBD CBCCVC được xây dựng theo những chuẩn mực quốc tế phải có cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính tương xứng đủ lớn để trang trải cho các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy có chất lượng và hiệu quả. Như vậy, kinh phí phải được bố trí đủ để thực hiện các mục tiêu và giải pháp của chiến lược phát triển với việc thu hút và đa dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động ĐTBD, đồng thời đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý, sử dụng kinh phí ĐTBD.
Tóm lại, để đạt được đẳng cấp quốc tế, trước hết Học viện phải là cơ sở ĐTBD đa chức năng (nghiên cứu – giảng dạy – tư vấn), tổ chức hiệu quả hoạt động ĐTBD có trọng điểm, hướng nhu cầu không chỉ Nhà nước, mà còn xã hội; xây dựng được đội ngũ giảng viên (nhất là giảng viên QLNN) có trình độ lý luận và thực tiễn QLNN cao; có chính sách thu hút nhân tài hợp lý với các bước đi thích hợp.
Đặc biệt, Học viện cần duy trì được những giá trị cốt lõi là: sự chuyên nghiệp, tận tụy và có trách nhiệm với những gì đã cam kết trong mọi lĩnh vực hoạt động với năng lực, sự thành thạo và sự hợp tác tốt trong việc cung cấp các dịch vụ ĐTBD với các đối tác. Cùng với đó, không ngừng đổi mới, hướng tới xác lập sự vượt trội về tính liêm chính, tinh thần làm việc tập thể quyết đoán và sáng tạo trong môi trường tin cậy, làm việc trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, gắn với trách nhiệm của từng cá nhân; thực hành chính sách tài chính minh bạch, luôn công bằng và nhất quán./.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. http://dangcongsan.vn, ngày 29/01/2016.
2. Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg ngày 23/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia.
3. Hồ Chí Minh. Về đạo đức cách mạng. H. NXB Chính trị quốc gia, 2010. tr. 90.
PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh
Nguyên Phó Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia