Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tại các tỉnh Đông Nam bộ – Thực trạng và giải pháp

(QLNN) – Đông Nam Bộ hay còn gọi là miền Đông bao gồm 6 tỉnh, thành: TP. Hồ Chí Minh; Bà Rịa – Vũng Tàu; Bình Dương; Bình Phước; Đồng Nai và Tây Ninh. Vùng Đông Nam Bộ có vị trí địa lý tự nhiên thuận lợi, bốn phía tiếp giáp với các không gian kinh tế đa dạng và phong phú. Đông Nam Bộ là vùng trọng điểm kinh tế phía Nam và vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp cả nước, nền kinh tế của Vùng.

 

Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tại các tỉnh Đông Nam Bộ

Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ, công chức, viên chức (CBCC) luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ chú trọng thực hiện và đạt được những kết quả tích cực đáng ghi nhận. Nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng đội ngũ CBCCVC đối với hiệu lực, hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, cấp ủy đảng, chính quyền các tỉnh Đông Nam Bộ đã thực hiện tổng thể nhiều biện pháp, trong đó chú trọng công tác ĐTBD. Đẩy mạnh phối hợp giữa Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Trường Chính trị tỉnh và các đơn vị có liên quan xây dựng, lập kế hoạch, triển khai tổ chức thực hiện ngày càng hiệu quả.

Giai đoạn từ năm 2011 – 2016, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tiến hành đào tạo chuyên môn cho 850 CBCCVC, đào tạo nước ngoài 129 CBCCVC, đào tạo lý luận chính trị 2.581 CBCC; công tác bồi dưỡng được phân bổ đều với việc cập nhật, trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, chức danh, cán bộ nguồn, quốc phòng – an ninh, bồi dưỡng học tập kinh nghiệm nước ngoài theo Đề án 165 với tổng số 15.554 CBCCVC1.

Ngoài ra, tỉnh cũng đã đầu tư đồng bộ hệ thống cơ sở ĐTBD CBCCVC, từ tỉnh xuống cơ sở gồm: Trường Chính trị tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, thành phố, các trường đại học, cao đẳng của tỉnh… Lĩnh vực ĐTBD được mở rộng; nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức ĐTBD có sự thay đổi theo hướng tích cực, kết hợp lý thuyết và thực hành gắn liền với nhu cầu thực tiễn.

Bên cạnh đó, chú trọng xây dựng kế hoạch, đề án ĐTBD đối với một số nhóm CBCC đặc thù như: đề án cử CBCCVC, đi thực tập và làm việc tại doanh nghiệp khoa học – công nghệ nước ngoài do sở Khoa học và Công nghệ chủ trì.

Có thể coi đây là một trong số những đề án có tính đột phá, táo bạo, cần nhân rộng bởi thực tế chứng minh rằng cung cách làm việc, quản lý và trang thiết bị khoa học – công nghệ của các doanh nghiệp nước ngoài đã và đang vượt trội hơn về hiệu quả so với cơ quan nhà nước. TP. Hồ Chí Minh tập trung tăng cường công tác ĐTBD CBCCVC và xác định trọng tâm là đội ngũ cán bộ trẻ. Việc đào tạo, tăng cường cán bộ xuất thân từ công nhân, cán bộ trẻ tuổi đạt kết quả tích cực.

Từ khi triển khai đến hết năm 2015, Chương trình tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý đi lên từ công nhân đã xét và bố trí công tác 133 trường hợp, trong đó có 92 công nhân (96,17%), 41 sinh viên (30,82%), 40 nữ (31,5%), 70 đảng viên (52,63%), 16/92 cán bộ (17,39%) được bổ nhiệm chức danh cán bộ chủ chốt phường – xã. Đội ngũ cán bộ thành phố được ĐTBD nâng cao trình độ lý luận chính trị, đã đào tạo lý luận chính trị cao cấp, cử nhân 5.076 người; tính đến hết năm 2015, có 97,8% cán bộ khối quận, huyện và 77,5% cán bộ khối sở, ban, ngành thành phố, cơ quan Trung ương đạt trình độ cao cấp, cử nhân lý luận chính trị.

Đẩy mạnh chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ cho hệ thống chính trị. Trong nhiệm kỳ, đào tạo được 12 tiến sỹ và 208 thạc sỹ. Ngoài ra, thành phố còn thí điểm chính sách thu hút chuyên gia khoa học – công nghệ đạt kết quả bước đầu tích cực; đẩy mạnh thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao2. Về cơ bản, những năm qua, TP. Hồ Chí Minh đã làm tương đối tốt công tác ĐTBD nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản lý của chính quyền thành phố.

Tỉnh Bình Dương thực hiện chính sách ĐTBD và thu hút nguồn nhân lực với việc ban hành chính sách đào tạo, phát triển, thu hút nguồn nhân lực của tỉnh gồm 4 nội dung lớn: chính sách ĐTBD trong nước; chính sách cử đi ĐTBD ở nước ngoài; chính sách thu hút nguồn nhân lực và chính sách đãi ngộ người có trình độ đại học về công tác ở xã, phường, thị trấn.

Việc triển khai thực hiện tốt các chính sách này trong những năm qua đã giúp tỉnh ĐTBD bổ sung một số CBCCVC, có đủ trình độ, năng lực để đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương. Bình Dương là một trong số những địa phương thực hiện quyết liệt chủ trương tinh giản biên chế; trong quá trình tinh giản biên chế, tỉnh luôn chú trọng đến công tác ĐTBD CBCC.

Một góc Trung tâm hành chính công tỉnh Đồng Nai (Ảnh: https://tuoitre.vn).

Thay vì phải chi dàn trải, coi trọng “số lượng hơn chất lượng” để ĐTBD thì việc tinh giản biên chế giúp các cấp chính quyền có được nguồn tài chính nhiều hơn, lựa chọn được những CBCCVC có năng lực tốt hơn để tiến hành ĐTBD. Theo số liệu của Sở Nội vụ tỉnh Bình Dương, trong năm 2016 có hơn 1.000 CBCCVC, được ĐTBD nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ3. Chính quyền các cấp nêu cao tinh thần, chú trọng bảo đảm thu hút người thực tài về làm công tác quản lý nhà nước, phát huy tính hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước, tiến tới chính quyền phục vụ, chính quyền kiến tạo.

Ở Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai lại xác định đội ngũ CBCC xã, phường, thị trấn là bộ phận nòng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở, bởi họ là những người trực tiếp giải quyết công việc cụ thể của người dân, gắn bó với đời sống nhân dân. Chính vì vậy, các địa phương này đã tăng cường nâng cao chất lượng công tác ĐTBD đối với đội ngũ CBCC cấp xã về các lĩnh vực lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước và chuyên môn, nghiệp vụ ở các ngành như: công an, quân sự, địa chính, tư pháp, tài chính kế toán…

Quán triệt thực hiện chủ trương “trẻ hóa” đội ngũ CBCC cấp xã có chất lượng, các chức danh chuyên môn được sắp xếp ổn định và phát huy tác dụng. Ngoài ra, các tỉnh này chú trọng và tích cực triển khai công tác đào tạo tiếng Khmer cho CBCC của tỉnh, nhất là những người đang công tác tại các xã biên giới. Riêng tỉnh Đồng Nai đặc biệt chú trọng ĐTBD CBCC cấp xã theo Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn”. Tỉnh Bình Phước xác định trọng tâm ĐTBD CBCCVC lấy đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý làm chủ chốt. Qua 11 năm (2006 – 2016), tỉnh đã bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng chức danh về công tác xây dựng Đảng cho 1.167 đồng chí4.

Như vậy, về cơ bản, việc thực hiện ĐTBD CBCCVC trên địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ những năm qua đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Những thành tựu này góp phần giúp các cấp uỷ đảng, chính quyền tỉnh đã và đang nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cơ quan nhà nước, bảo đảm hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.

Tuy vậy, công tác ĐTBD vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập nhất định. Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu đã thẳng thắn nhận định: “Đào tạo, bồi dưỡng  chưa sát với yêu cầu thực tiễn, chưa thực sự gắn với quy hoạch, đánh giá, sử dụng cán bộ; phương pháp đào tạo, bồi dưỡng  chưa có nhiều đột phá.

Đặc biệt, một số nội dung, chương trình còn chồng chéo, hạn chế về tính ứng dụng và tính hội nhập. Cụ thể là chương trình đào tạo sơ cấp, trung cấp lý luận chính trị còn có các môn học trùng lặp chương trình đại học, cao đẳng (Tư tưởng Hồ Chí Minh, Triết học, Chủ nghĩa Mác-Lênin); chương trình bồi dưỡng, cập nhật kiến thức nhưng chưa mang nhiều tính mới’’5.

Bên cạnh đó, việc ĐTBD lý luận chính trị ở các thành phố chỉ tập trung chủ yếu vào đội ngũ cán bộ cấp huyện, quận, sở ban ngành, trong khi đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở rất quan trọng. Bởi đây là nhóm chủ thể trực tiếp tiếp xúc và làm việc với người dân nên càng cần được ĐTBD về phẩm chất, lý luận chính trị. Hoặc đối với chủ trương đẩy mạnh đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ cần có kế hoạch rà soát, sàng lọc đối tượng cho phù hợp, tránh tình trạng học tập “hình thức”, chạy theo thành tích gây tốn kém thời gian và chi phí của cơ quan, đơn vị.

Thực tế ở cơ sở, đặc biệt là một số xã điều kiện khó khăn như ở tỉnh Bình Dương vẫn còn một bộ phận CBCC cấp xã chưa qua đào tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của vị trí việc làm.

Lực lượng CBCCVC có chất lượng cao chủ yếu tập trung ở những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế nhanh của tỉnh, chưa phân bổ hợp lý về xã khó khăn. Hoặc như công tác ĐTBD CBCCVC ở Tây Ninh, Đồng Nai những năm qua vẫn còn một số hạn chế nhất định như: các địa phương chưa chủ động trong việc lập, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch ĐTBD, chưa khắc phục được tình trạng nhiều CBCC cấp xã thiếu tiêu chuẩn so với quy định. Mặt khác, ở một số địa phương lại có tình trạng, CBCC cấp xã sau khi được đào tạo lại bố trí không đúng địa bàn cần, sắp xếp không đúng chuyên môn đã được đào tạo…

Giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tại các tỉnh Đông Nam Bộ trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Thứ nhất, rà soát, phân loại, đánh giá nhu cầu ĐTBD của CBCCVC và căn cứ định hướng phát triển của tỉnh, thành phố khu vực Đông Nam Bộ để xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện phù hợp. Xác định rõ từng giai đoạn lộ trình theo năm, quý cho từng nhóm đối tượng ĐTBD gồm chức vụ, ngạch, vị trí việc làm, độ tuổi, lĩnh vực, ngành công tác…

Đặc biệt lưu ý, đối với những đối tượng được cử đi đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nhưng kết quả, chất lượng học tập không đạt yêu cầu và năng lực vẫn hạn chế thì có thể xem xét phương án tinh giản biên chế.

Thứ hai, nâng cao nhận thức, quyết tâm và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong vấn đề chỉ đạo, triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch ĐTBD. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện để CBCCVC cấp dưới được tham gia các lớp ĐTBD, cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng theo ngạch, chức danh, tiêu chuẩn của vị trí việc làm.

Bên cạnh đó, thủ trưởng cơ quan, đơn vị cần có sự theo dõi, giám sát và đánh giá hiệu quả làm việc của cấp dưới sau quá trình ĐTBD, hạn chế tối đa tình trạng tham gia các khóa học mang tính hình thức dẫn đến tốn kém thời gian, chi phí của tổ chức.

Thứ ba, đổi mới quy trình, cách thức, chương trình ĐTBD hướng đến xây dựng đội ngũ CBCCVC tiêu chuẩn 4.0. Xây dựng chương trình bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của CBCCVC, chú trọng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành.

Mở rộng nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức ĐTBD có sự thay đổi theo hướng tích cực, kết hợp lý thuyết và thực hành gắn liền với nhu cầu thực tiễn. Tạo lập cơ chế, chính sách hỗ trợ ĐTBD CBCCVC để học viên có tinh thần tự giác trong học tập nâng cao trình độ, tuy vậy cũng cần gắn trách nhiệm cụ thể với từng cá nhân khi tham gia các khóa học ĐTBD.

Thứ tư, nâng cao chất lượng cơ sở ĐTBD CBCCVC. Đối với hệ thống các Trường Chính trị đặt tại các tỉnh, thành phố khu vực Đông Nam Bộ, cần phân tích, xem xét có thể bổ sung một số nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu ĐTBD CBCC. Ngoài ra, đặc biệt chú trọng vấn đề nâng cao chất lượng của giảng viên tại các trường chính trị: có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; đầu tư trang cấp trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy tại cơ sở ĐTBD.

Ngoài ra, các cấp uỷ đảng, chính quyền tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ có thể xem xét phương án thí điểm phối hợp với một số cơ sở đào tạo uy tín của nước ngoài hoặc các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài hoạt động trên địa bàn để triển khai chương trình, kế hoạch cử CBCCVC đi học tập, thực tập, tiếp thu, học hỏi những cách thức, phương pháp thực thi nhiệm vụ hiệu quả.

Thứ năm, phát huy hiệu quả, vai trò của các đơn vị được giao nhiệm vụ điều hành, tham mưu công tác ĐTBD của tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ. Có thể phổ biến, triển khai rộng kinh nghiệm công tác ĐTBD của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong điều phối và tham mưu kế hoạch, chương trình, đề án, xác lập cụ thể mục tiêu, giải pháp về ĐTBD và phát triển toàn diện nguồn nhân lực tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ./.

Chú thích:
1, 5. Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu. Đề án Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đến năm 2020, định hướng đến năm 2025. tr. 19.
2. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh khóa IX tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ X nhiệm kỳ 2015 – 2020.
3. Tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. http://caicachcongvu.gov.vn
4. Hơn 2.500 cán bộ được đào tạo cao cấp lý luận chính trịhttp://khoahocthoidai.vn

ThS. Phạm Văn Phong
Học viện Chính trị Khu vực IV