An sinh xã hội và vai trò của nhà nước trước yêu cầu hội nhập

(QLNN) – Ngày nay, nhu cầu được thụ hưởng an sinh xã hội ngày càng được mở rộng. Các quốc gia đều chú trọng quan tâm hơn đến bảo đảm an sinh xã hội cho dân cư nước mình có thu nhập tối thiểu, nhằm thoát khỏi tình trạng đói nghèo khi mất việc làm, không có thu nhập. Đặc biệt, mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ an sinh xã hội, tái hòa nhập tốt hơn đối tượng yếu thế dễ bị tổn thương vào cộng đồng, góp phần quan trọng thực hiện quyền con người và phát triển toàn diện.

 

Một số nội dung cơ bản của chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam

Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), là chính sách quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH) được xây dựng theo hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu dựa vào sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư, tài trợ, viện trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài và các nguồn thu hợp pháp khác. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ một phần nguồn tài chính và bảo trợ cho sự an toàn về tài chính của quỹ. Nhà nước có cơ chế, chính sách quản lý, cho phép cơ quan BHXH được thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH, nhằm bảo đảm việc thực hiện chính sách BHXH được ổn định lâu dài.

Chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) với hai loại hình cơ bản là, BHYT bắt buộc và BHYT được xác định đối tượng tham gia, mức đóng và mức chi trả chế độ. Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch và có sự phân cấp quản lý trong hệ thống tổ chức BHYT. Chính phủ quy định cụ thể việc quản lý quỹ BHYT; quyết định nguồn tài chính để bảo đảm việc khám, chữa bệnh BHYT trong trường hợp mất cân đối thu – chi quỹ BHYT.

Chính sách ưu đãi xã hội là một “đặc thù” trong hệ thống chính sách ASXH của Việt Nam. Nhà nước bố trí ngân sách để thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và khuyến khích mọi thành viên trong xã hội tham gia. Bên cạnh các chế độ ưu đãi bằng vật chất còn có các hình thức ưu đãi, như: giáo dục và đào tạo, việc làm, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe, xây nhà tình nghĩa, thăm hỏi, tặng quà vào các dịp lễ, tết, ngày truyền thống…

Chính sách trợ giúp xã hội thiết lập nhằm trợ giúp kịp thời các thành viên trong xã hội rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Đối tượng hưởng trợ giúp xã hội là người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật nặng, người gặp rủi ro do thiên tai và các lý do bất khả kháng khác mà bản thân họ và người thân không thể tự khắc phục được.

Ở Việt Nam, chính sách trợ giúp xã hội còn mở rộng thêm đối tượng thụ hưởng, như: diện đói nghèo, tệ nạn xã hội, người tàn tật, trẻ mồ côi, trẻ em bị nhiễm chất độc da cam… với nhiều hình thức trợ giúp, như: tiền mặt, hỗ trợ đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm, hỗ trợ kinh phí khám, chữa bệnh,… Ngoài nguồn tài chính được sử dụng từ ngân sách nhà nước, Nhà nước cũng khuyến khích, huy động sự tham gia đóng góp của cộng đồng và tài trợ của các tổ chức quốc tế.

Thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra

Chính sách ASXH luôn được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện và bảo trợ về tài chính để chính sách ASXH nhanh chóng đi vào cuộc sống. Nhiều văn bản pháp luật được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, việc xác định đối tượng, chế độ, chính sách, nguồn lực, cơ chế tổ chức, bộ máy triển khai thực hiện chính sách đã được quy định cụ thể, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách ASXH phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân dân và quá trình hội nhập quốc tế.

Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội.

Diện bao phủ được mở rộng, chất lượng cung cấp dịch vụ ASXH ngày càng nâng cao, tạo cơ hội thuận lợi và bình đẳng cho các đối tượng tiếp nhận dịch vụ ASXH. Thiết lập nhiều hình thức tiếp nhận các dịch vụ ASXH như, cấp thẻ BHYT cho đối tượng trợ giúp xã hội, cấp sách vở, đồ dùng học tập, khi chết được hỗ trợ kinh phí mai táng…

(Ảnh: http://www.huyendoanphutan.com.vn).

Nguồn tài chính thực hiện chính sách ASXH được duy trì, tạo môi trường thuận lợi để hỗ trợ và phát triển bền vững quỹ ASXH. Nhà nước đã ban hành các đạo luật về quản lý tài chính cho các hoạt động ASXH, quy định mức đóng góp và các chế độ ASXH, điều kiện được hưởng và mức hưởng đối với từng chế độ. Bên cạnh đó, Nhà nước phát huy nhiều hình thức để huy động mọi nguồn lực và khuyến khích các cá nhân, cộng đồng tham gia thực hiện ASXH trên tinh thần chia sẻ trách nhiệm xã hội.

Bên cạnh một số kết quả đạt được, trước yêu cầu hội nhập, trong thời gian tới Việt Nam cần quan tâm đến những vấn đề sau:

Thứ nhất, về công tác dự báo và hoạch định chiến lược ASXH. Thiết lập tốt môi trường pháp lý, xác lập các điều kiện cần và đủ khi chính sách ASXH được triển khai đạt được mục tiêu, hiệu quả tối ưu đến các đối tượng thụ hưởng.

Thứ hai, sự tương thích giữa chính sách ASXH với sự biến động của đời sống kinh tế xã hội. Sự thay đổi về thói quen, lối sống, phong tục tập quán của người dân. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách ASXH thiếu sự liên kết, đồng bộ dẫn đến chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót.

Thứ ba, vai trò quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực ASXH còn chưa được phát huy đầy đủ. Công tác quản lý nhà nước về đối tượng tham gia còn gặp nhiều khó khăn và chưa chính xác, huy động nguồn lực còn hạn chế, một phần là do khung pháp lý chưa kịp thời, tổ chức hệ thống và quy định chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng; sự phối, kết hợp giữa các chủ thể trong việc triển khai chính sách ASXH còn thiếu chặt chẽ; kinh phí chi cho hoạt động tuyên truyền pháp luật ASXH còn thiếu, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ; thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật chưa được thường xuyên; sự phối hợp giữa các ngành chủ quản với địa phương trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách chưa hiệu quả và chưa có sự phân định rõ ràng.

Thứ tư, mở rộng diện bao phủ thực hiện chính sách BHXH và BHYT, đây là vấn đề thách thức đối với Việt Nam bởi đối tượng hưởng lợi chính của hệ thống chính sách BHXH, BHYT chủ yếu là những người đã có việc làm hoặc những người thuộc diện chính sách xã hội. Người lao động thuộc khu vực phi chính thức (những người không phải thuộc diện làm công, ăn lương) hoặc không thuộc diện chính sách xã hội (nông dân, thợ thủ công, kinh tế cá thể, tư nhân) thì khả năng tiếp cận các dịch vụ này còn gặp nhiều khó khăn và số lượng tham gia còn rất nhỏ so với thực tế.

Thứ năm, thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội đang đặt ra nhiều thách thức mới. Sự phân tầng xã hội, khoảng cách giàu, nghèo; các chế độ, chính sách ưu đãi và trợ giúp còn manh mún, chắp vá; nhận thức của người dân còn hạn chế, các nguồn lực chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; trong hoạt động quản lý chưa nhất quán, thống nhất dẫn đến chính sách triển khai chậm, bị trục lợi, đối tượng thụ hưởng chưa đúng gây bức xúc trong nhân dân. Các hoạt động này còn mang tính hình thức, nặng về hoạt động nhân đạo, từ thiện, thực chất chưa phải sự chia sẻ trách nhiệm xã hội.

Thứ sáu, về hành lang pháp lý, Nhà nước cần thiết lập cơ chế, chính sách, bảo đảm cho đầu tư quỹ ASXH, tạo hành lang pháp lý, xây dựng bộ máy quản lý tinh gọn, hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa các công cụ và dụng cụ hỗ trợ tác nghiệp, cơ cấu lại quỹ ASXH và xem xét lại các hoạt động sinh lời từ các quỹ này.

Thứ bảy, đội ngũ cán bộ làm công tác về chính sách ASXH chưa được quan tâm đúng mức, tính chuyên nghiệp chưa cao.

(Ảnh: http://www.huyendoanphutan.com.vn).
Một số giải pháp chủ yếu

Thực hiện chính sách ASXH là hướng vào phát triển con người, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội đáp ứng yêu cầu hội nhập, do đó cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách ASXH. Nhà nước cần tập trung đổi mới, xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật làm nền tảng cho hoạt động quản lý, thực thi chính sách ASXH; kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách ASXH; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải cách hành chính, thiết lập cơ chế tài chính cho chính sách ASXH được thực hiện thông suốt và hiệu quả.

Hai là, xây dựng mối quan hệ tích hợp giữa chính sách ASXH trong hệ thống các chính sách khác. Mối quan hệ này được thiết lập nhằm tăng cường hiệu quả quản lý và phối kết hợp giữa cơ quan có liên quan với nhau. Đặc biệt, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, năng lực của từng cấp, từng ngành trong thực hiện chính sách ASXH. Trên cơ sở đó, Nhà nước thực hiện việc điều tiết, phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế phân hóa giàu, nghèo, phân tầng xã hội và thúc đẩy kinh tế phát triển.

Ba là, phát huy vai trò cộng đồng. Nhà nước cần đẩy mạnh xã hội hóa thực hiện chính sách ASXH, từ đó, tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức, khơi dậy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của cộng đồng, khuyến khích khu vực tư tham gia thực hiện chính sách ASXH. Đa dạng hóa cung ứng các dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu của người dân và làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.

Đối với Việt Nam, việc kế thừa và phát huy truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong triển khai thực hiện chính sách ASXH là giải pháp để kêu gọi các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện chính sách ASXH, đồng thời, nghiên cứu và kế thừa kinh nghiệm các nước đi trước, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để xây dựng và thực hiện mô hình ASXH hiện đại, phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện chính sách ASXH. Hiện nay, để thực hiện các vấn đề về chính sách ASXH là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”1, để tranh thủ nguồn lực cho việc thực hiện mục tiêu ASXH.

Cần tăng cường trao đổi, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia có mạng lưới ASXH hiện đại, đặc biệt là kinh nghiệm về ứng phó với các tác động xã hội, trong đó, việc duy trì mạng lưới an toàn, phân bổ nguồn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, giảm đói nghèo và ổn định kinh tế vĩ mô. Từ đó, xây dựng chiến lược tổng thể ASXH quốc gia, bảo đảm hài hòa giữa khung định hướng phát triển dài hạn với giải quyết những vấn đề có tính chất ưu tiên trước mắt của hệ thống chính sách ASXH mới, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam./.

Chú thích:
1. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Đình Hòa. Vấn đề dân sinh và xã hội hài hòa. H. NXB Khoa học xã hội, 2010, tr. 83.
NCS. Nguyễn Thị Linh Giang
Học viện Chính trị khu vực III