Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013

(QLNN) – Hiến pháp năm 2013 kế thừa các Hiến pháp trước và có bước tiến vượt bậc ghi nhận về quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân chia về chức năng, nhiệm vụ, vận hành theo cơ chế phối hợp và lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được đề cập. Đây là một điểm mới đặc biệt, là hạt nhân hợp lý được lựa chọn từ học thuyết tam quyền phân lập, là cơ sở để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước ngay từ bên trong các thiết chế quyền lực.

Hội thảo “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013”. (Ảnh: http://noichinh.vn/tin-tuc-su-kien).
Về nguyên tắc phân quyền trong kiểm soát quyền lực nhà nước

Thực hiện chủ trương của Đảng, tại kỳ họp thứ I, Quốc hội khóa XIII (tháng 8/2011) đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp mới được thông qua ngày 28/11/2013 tại kỳ họp thứ VI với những điểm thay đổi lớn, khắc phục một số tồn tại của cơ chế kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001. Hiến pháp năm 2013 có giá trị mới vượt trội so với các bản Hiến pháp trước đây, những thay đổi trong Hiến pháp lần này sửa đổi cơ chế kiểm soát thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Chính phủ, tòa án và các thiết chế khác, góp phần thực hiện hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thứ nhất, về hoạt động kiểm soát đối với quyền lập pháp, mặc dù Hiến pháp chưa đưa ra quy định thể hiện rõ cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước với Quốc hội  mà chỉ khẳng định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp dựa trên một trong những cơ sở của sáng kiến lập pháp như ý kiến của nhân dân, sự đồng thuận của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền (Điều 120).

So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ cụm từ “duy nhất” nhằm thể hiện sự phối hợp trong thực hiện quyền lập hiến, lập pháp với các cơ quan nhà nước khác, đồng thời gắn với khả năng thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông qua tổ chức trưng cầu ý dân. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục giao cho Chủ tịch nước quyền phủ quyết đối với văn bản quy phạm do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và được quyền “Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh” trước khi có hiệu lực thi hành (khoản 1 Điều 88).

Thứ hai, về cơ chế kiểm soát đối với quyền hành pháp, được thực hiện trước hết bởi cơ quan lập pháp. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Điều 70)… và thông qua các hoạt động như báo cáo của Chính phủ và các thành viên Chính phủ, chất vấn các thành viên Chính phủ,…

Quyền hành pháp của Chính phủ còn bị hạn chế bởi Chủ tịch nước (khoản 2 Điều 88) và “Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phiên họp của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước” (Điều 90) và Chính phủ phải báo cáo với Chủ tịch nước về những vấn đề thuộc thẩm quyền (Điều 94).

Thứ ba, về kiểm soát tư pháp, Chương V của Hiến pháp năm 2013 đã có sự điều chỉnh tương ứng liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội như thực hiện quyền giám sát tối cao, xét báo cáo công tác của tòa án, viện kiểm sát và các cơ quan khác; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án tòa án nhân dân tối cao…

Hiến pháp năm 2013, về cơ bản, vẫn chia đơn vị hành chính nước ta thành 4 cấp (gồm cả trung ương). Tuy nhiên, Hiến pháp đã có sự đổi mới ở chỗ, ghi nhận đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (Điều 110), thống nhất tên gọi của cấp dưới trung ương là chính quyền địa phương (CQĐP) với cách thức tổ chức linh hoạt hơn khi quy định “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định”(khoản 2 Điều 111).

Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP sao cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đặc biệt, trong mối quan hệ với trung ương, Hiến pháp đã quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của CQĐP, trong đó có quy định tại Điều 112: “Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.

Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Quy định này tạo nền tảng quan trọng bảo đảm sự chủ động, linh hoạt của CQĐP, vừa là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước ở trung ương thực hiện kiểm soát việc thực thi nhiệm vụ của CQĐP. Ngoài ra, Quốc hội có quyền giám sát tối cao với CQĐP theo Hiến định.

Về cơ chế nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước

So với Hiến pháp năm 1992, quy định về cơ chế nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước của Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ rõ rệt của tư duy lập hiến Việt Nam; đã quy định đầy đủ hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Về hình thức dân chủ trực tiếp, nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, trưng cầu ý dân, quyền khiếu tố, bãi nhiệm các vị trí trong cơ quan nhà nước khi không còn xứng đáng với tín nhiệm của mình… Về hình thức dân chủ gián tiếp, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các các cơ quan dân cử theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Việc bổ sung hình thức dân chủ trong Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, trong đó có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi Hiến pháp quy định Thủ tướng, các bộ trưởng phải thực hiện báo cáo trực tiếp với nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng (khoản 6 Điều 98, khoản 2 Điều 99),… Đặc biệt, trong “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương” (khoản 2 Điều 110).

Hiến pháp năm 2013 có bước tiến trong việc bảo vệ quyền con người, quyền dân chủ. Hiến pháp ghi nhận quyền con người bên cạnh quyền công dân. Hiến pháp dành 21 điều để quy định về quyền con người và 15 điều quy định về quyền công dân. Đây là một cơ sở pháp lý quan trọng để người dân có thể bảo vệ quyền lợi của mình hiệu quả hơn thông qua việc kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước không vi phạm quyền con người. Cụ thể, những thay đổi về chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 như sau:

Thứ nhất, về tên chương, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con người” đã trở thành tên gọi của chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Sự bổ sung cụm từ “quyền con người” là điểm nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ đơn thuần là sự bổ sung một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh tư duy phát triển, phù hợp với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân loại.

Bên cạnh đó, cũng xóa bỏ ranh giới còn chưa rõ ràng giữa khái niệm về quyền con người và quyền công dân (quyền con người là quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của những người có quốc tịch Việt Nam), ghi nhận việc mở rộng các chủ thể của quyền, khẳng định chủ thể rộng nhất của quyền con người là mọi cá nhân, mọi người đều được hưởng.

Việc thay đổi tên Chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” trong Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Thứ hai, chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đưa lên và đặt trang trọng tại Chương II, ngay sau Chương I quy định về chế độ chính trị. Đây cũng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi số học về vị trí các chương mang tính chất kỹ thuật lập hiến mà còn thể hiện sự thay đổi về nhận thức lý luận, tư duy lập hiến, là sự khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đề cao nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, đồng thời cũng phản ánh thực tiễn đổi mới toàn diện, hội nhập sâu rộng, tiến bộ và phát triển của đất nước ta, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Thứ ba, với quy định tại khoản 1 Điều 14, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân so với Hiến pháp năm 1992 (chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện ở các quyền công dân).

Điểm nhấn của nội dung này là việc bổ sung nguyên tắc: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên; hạn chế tối đa bất cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hay hạn chế các quyền và tự do vốn có của mọi người bởi các cơ quan nhà nước.

Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân, nhất là các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, như: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (khoản 2 Điều 24), “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội” (khoản 2 Điều 26), “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (khoản 2 Điều 28);…

Cùng với việc nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con người, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các thiết chế độc lập nhằm tăng cường cơ chế thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, như hiến định Hội đồng Bầu cử quốc gia (Điều 117) và bổ sung quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (khoản 2 Điều 119).

Về phát triển các định chế độc lập

Hiến pháp năm 2013 thể hiện một ưu điểm so với các bản Hiến pháp trước đó khi quy định các định chế độc lập tại chương X, gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Đây là một chế định quan trọng giúp cho việc bầu cử cũng như kiểm tra việc thực thi tài chính công được độc lập, khách quan, vô tư khi hiến định các cơ quan này trong hoạt động chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, là một nội dung quan trọng nhằm tăng cường sự hiệu quả trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, giảm thiểu sự tha hóa, lạm dụng quyền lực trong thực thi công vụ của các cơ quan nhà nước.

Theo quy định tại  Điều 117, Hội đồng Bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử Đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng Bầu cử quốc gia gồm có chủ tịch, các phó chủ tịch và các ủy viên. Tại khoản 7 Điều 70 Chủ tịch Hội đồng Bầu cử quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; các Phó chủ tịch và những thành viên khác của Hội đồng Bầu cử quốc gia do Quốc hội phê chuẩn.

Về Hội đồng Bầu cử quốc gia, từ một thiết chế phụ trách công tác bầu cử, tồn tại dưới hình thức một tổ chức phụ trách bầu cử do luật định và hoạt động mang tính lâm thời trước đây, nay đã được nâng lên thành một cơ quan chuyên trách, tồn tại thường xuyên và lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến được nâng lên ở tầm Hiến định.

Đây là một điểm mới quan trọng và là bước phát triển về chất trong hoạt động lập hiến cũng như trong nhận thức của chúng ta về thực hiện chủ quyền nhân dân trong việc bảo đảm quyền bầu cử – một quyền dân chủ trực tiếp quan trọng của Nhân dân. Bởi vì, thực tiễn hoạt động bầu cử trong nhiều năm qua cho thấy, Hội đồng Bầu cử ở trung ương và các tổ chức phụ trách bầu cử khác ở địa phương thường chỉ được thành lập khi cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) khóa cũ hết nhiệm kỳ và chuẩn bị cho việc bầu cơ quan dân cử khóa mới; tổ chức này tự giải thể khi toàn bộ hồ sơ bầu cử được bàn giao cho Quốc hội khóa mới.

Đến nay, với quy định của Hiến pháp năm 2013, việc thành lập Hội đồng Bầu cử quốc gia  nhằm khắc phục những hạn chế của công tác bầu cử hiện nay: một là, thành viên của Hội đồng Bầu cử phần đông cũng là người ứng cử; hai là, Quốc hội, Hội đồng nhân dân vừa được bầu lại biểu quyết xác nhận tư cách đại biểu của chính mình; ba là, thiếu tính chuyên nghiệp trong hoạt động và vì thế, thiếu một cơ quan chuyên trách chăm lo công tác bầu cử trong cả nhiệm kỳ, chẳng hạn việc bảo đảm quyền có người đại diện của cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử khi đơn vị đó khuyết đại biểu…

Về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng Bầu cử quốc gia, theo quy định của khoản 3 Điều 117 Hiến pháp năm 2013 là do luật định và căn cứ vào các quy định có liên quan khác trong Hiến pháp năm 2013, các cơ quan hữu quan tới đây cần tổ chức nghiên cứu để xây dựng và trình Quốc hội thông qua luật về tổ chức Hội đồng Bầu cử quốc gia. Đây là một công việc rất quan trọng và cũng không đơn giản, cần một dự luật theo đúng tinh thần của Hiến pháp và phù hợp với thực tiễn của nước ta.

Đối với Kiểm toán Nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118 Hiến pháp năm 2013). Tổng Kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán Nhà nước do luật định.

Tổng Kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do luật định và quy định: Tổng Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm (khoản 7 Điều 70 Hiến pháp).

Với các quy định này, sau hàng chục năm được tổ chức và hoạt động theo luật, địa vị pháp lý và vai trò của Kiểm toán Nhà nước đã được xác lập trong Hiến pháp, đạo luật cơ bản của Nhà nước. Với việc xác định Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, đã chính thức hiến định về mô hình cơ quan kiểm toán, về vị trí độc lập của Kiểm toán Nhà nước theo những giá trị phổ quát của thế giới về vị trí, vai trò của cơ quan kiểm toán tối cao được thể hiện trong Tuyên bố Lima, Tuyên bố Mexico của INTOSAI, Nghị quyết A/66/209 của Liên hiệp quốc và phù hợp với điều kiện nước ta.

Đồng thời, các quy định nêu trên cũng thể hiện nhất quán quan điểm xây dựng và phát triển Kiểm toán Nhà nước thực sự trở thành công cụ quan trọng và đủ mạnh của Nhà nước để kiểm toán các nguồn thu và khoản chi ngân sách thông qua các bản quyết toán ngân sách và kiểm soát, theo dõi hoạt động tài chính công, cụ thể là kiểm tra, đánh giá hiệu quả kinh tế, tính chính xác, công bằng của việc điều hành ngân sách và tính bền vững của nền tài chính quốc gia, góp phần quan trọng vào việc hỗ trợ các hoạt động giám sát, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát việc huy động, phân phối, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản công.

Về vị trí pháp lý của Đảng Cộng sản Mặt trận Tổ quốc và các thành viên

Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận về trách nhiệm của Đảng với nhân dân và Đảng phải chịu sự kiểm soát của nhân dân (Điều 4). Những quy định này là cơ sở pháp lý để nhân dân giám sát, kiểm tra các tổ chức của Đảng và các đảng viên theo Hiến pháp và luật.

Sự thay đổi này là cần thiết và phù hợp trước đòi hỏi mọi chủ thể trong xã hội phải “thượng tôn pháp luật” trong nền pháp quyền. Mặt trận Tổ quốc cũng được hiến định thêm vai trò phản biện xã hội (khoản 1 Điều 9). Đây là một bổ sung quan trọng của Hiến pháp năm 2013. Chính sự phản biện của Mặt trận Tổ quốc là một bổ sung hợp lý để hoàn thiện hơn chế độ nhất nguyên của nước ta.

Vị trí pháp lý của Đảng Cộng sản Việt Nam được ghi nhận ở Hiến pháp có sự bổ sung và phát triển quan trọng, đã khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Hiến pháp đã đưa và nhấn mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân. Đó là sức sống của Đảng. Thêm vào đó, Đảng phải phục vụ Nhân dân, phải chịu sự giám sát của Nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

Đảng có vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội nhưng vì trong xã hội có lực lượng của nhiều tổ chức chính trị – xã hội khác nhau nên sự thừa nhận chính thức vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp là rất cần thiết.

Vị trí pháp lý của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên theo Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện một bước cơ bản, làm nổi bật và phù hợp vị trí, vai trò của các tổ chức này trong xã hội nước ta, tạo cơ sở pháp lý phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong đời sống chính trị của đất nước trong thời kỳ mới. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; lần này, Hiến pháp quy định rõ hơn thực hiện quyền làm chủ, gắn với tăng cường đồng thuận xã hội.

Mặt trận Tổ quốc có vai trò giám sát, phản biện xã hội (Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước). Mặt trận Tổ quốc có vai trò trong hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Hiến pháp năm 1992 chưa quy định nội dung này). Với những quy định như vậy, Mặt trận Tổ quốc đã có đủ cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân./.

Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp năm 1992, bổ sung, sửa đổi năm 2001.

2. Hiến pháp năm 2013.
3. http://www.moj.gov.vn
4. TS. Vũ Công Giao. Kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt Nam (sách chuyên khảo). H.NXB Đại học Quốc gia, 2013.
5. http://dangcongsan.vn

 TS. Bùi Huy Tùng
Học viện Hành chính Quốc gia