Một số giải pháp tăng cường thực hiện công tác dân số trong tình hình mới  

(QLNN) – Ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển”. Đây là một nhiệm vụ mới nhằm giải quyết toàn diện, đồng bộ và căn bản hơn các vấn đề dân số đang đặt ra hiện nay và trong tương lai. 

1. Tại Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển (ICPD) được tổ chức năm 1994, 179 quốc gia, trong đó có Việt Nam đã thông qua chương trình hành động với tầm nhìn sâu rộng trong lĩnh vực dân số và phát triển (DSVPT). Các quốc gia đều đồng thuận với quan điểm cần đặt con người vào vị trí trung tâm, theo đó, cần khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả cơ cấu dân số vàng; xây dựng một xã hội công bằng – một xã hội không tồn tại sự kỳ thị và phân biệt đối xử, một xã hội luôn thúc đẩy, tôn trọng và bảo vệ công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản. Các quốc gia mong muốn sẽ đạt được mục tiêu này vào năm 2030 – đây cũng là năm cần đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs).

Với Việt Nam, sau 25 năm thực hiện Chương trình hành động Hội nghị quốc tế về DSVPT, công tác dân số đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tốc độ gia tăng dân số được khống chế thành công. Tốc độ tăng dân số bình quân hằng năm 1,7% giai đoạn 1989 – 1999 đã giảm xuống dưới 1,2% giai đoạn 1999 – 2009 và khoảng 1% giai đoạn từ 2010 đến nay. Số con trung bình của mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã giảm mạnh từ 6,39 con năm 1960 xuống 2,33 con năm 1999, đạt mức sinh thay thế 2,09 con năm 2006, sớm hơn 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) đề ra và tiếp tục được duy trì cho đến nay1.

Số liệu thống kê cho thấy, dân số nước ta năm 2018 khoảng 95 triệu người. Ước tính, quy mô dân số đã giảm được khoảng 20 triệu người nhờ các chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) phù hợp trong thời gian qua. Cơ cấu dân số thay đổi tích cực, số lượng và tỷ trọng dân số phụ thuộc giảm, dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Từ năm 1989 đến nay, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh, từ 39,2% xuống 24%; dân số trong độ tuổi lao động (15 – 64 tuổi) tăng từ 56,1% lên 68,4%; dân số trên 65 tuổi tăng từ 4,7% lên 7,6%. Cơ cấu lao động dịch chuyển theo hướng tích cực. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ tăng từ trên 27% năm 1993 lên 56% năm 2016; lao động nông nghiệp giảm từ trên 72% xuống còn 44,0%. Nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 và dự kiến đạt “đỉnh” vào năm 2020, với dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 70% dân số2.

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tỷ lệ suy dinh dưỡng và tỷ suất tử vong trẻ em đã giảm 2/3; tỷ số tử vong mẹ giảm 3/4 so với năm 1990. Tầm vóc, thể lực của người Việt Nam có bước cải thiện. Tuổi thọ trung bình tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 73,5 tuổi năm 2018. Số năm sống trung bình sau khi đạt 60 tuổi của người Việt Nam đã tương đương nhiều nước châu Âu.

Dân số đã có sự phân bố lại hợp lý hơn trên phạm vi cả nước. Mật độ dân số tăng ở nơi thưa dân như vùng Tây Nguyên (từ 52 người/km2 năm 1993 lên 106 người/km2 năm 2017), Đông Nam Bộ (từ 370 người/km2 năm 1993 lên 711người/km2 năm 2017) và giảm ở nơi đông dân như vùng đồng bằng sông Hồng (từ 1.105 người/km2 năm 1993 xuống 1.004 người/km2 năm 2017). Phân bố dân số gắn với đô thị hóa, công nghiệp hóa đáp ứng nhu cầu lao động, giải quyết tình trạng mất cân đối lao động – việc làm. Tỷ lệ dân số đô thị đã tăng từ 20% năm 1993 lên 35% năm 20173.

Công tác tuyên truyền, giáo dục dân số có bước đột phá. Đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên, tuyên truyền viên phát huy vai trò người có uy tín của cộng đồng trong tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách DS-KHHGĐ. Hàng chục nghìn câu lạc bộ, mô hình truyền thông về DS-KHHGĐ hoạt động hiệu quả ở mọi vùng miền của Tổ quốc.

Tuyên truyền về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình (Ảnh internet).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Việt Nam cũng đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức như: mất cân bằng giới tính khi sinh có xu hướng gia tăng; tốc độ già hóa dân số cao; có sự chênh lệch mức sinh giữa các địa phương; tuổi thọ bình quân của người dân tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn nhiều ở một số dân tộc ít người; phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập; nạn phá thai, bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả HIV/AIDS vẫn còn khá phức tạp, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao…

Dân số Việt Nam hiện đã bước vào giai đoạn già hóa từ năm 2011 khi tỷ lệ những người từ 60 tuổi trở lên đạt 10% và sớm trở thành nước có dân số già vào khoảng năm 2032 khi tỷ lệ này chạm “ngưỡng” 20%. Trong khi đó, những người cao tuổi hiện nay phần lớn là những người đã trải qua thời kỳ chiến tranh, nghèo khó nên sức khỏe yếu; hơn 70% sống ở nông thôn, phần lớn không có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…4. Những đặc điểm cơ bản trên cùng với tình trạng biết trước giới tính thai nhi ngày càng phổ biến làm mất cân bằng giới tính khi sinh, làm trầm trọng thêm những thách thức về an sinh xã hội và sự phát triển bền vững ở nước ta.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nguyên nhân chủ yếu do một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đúng và đầy đủ về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác DS-KHHGĐ; việc lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Một số cơ chế, chính sách về dân số chậm đổi mới. Các nội dung về dân số trong phát triển kinh tế – xã hội chưa được chú trọng đúng mức ở nhiều địa phương. Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy thiếu ổn định, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số ở cấp cơ sở còn thấp. Trong tình hình mới, với nhiều đòi hỏi cao hơn để thực hiện các mục tiêu đề ra, đội ngũ cán bộ làm công tác dân số lại đang bị tinh giản hoặc phải kiêm nhiệm các nhiệm vụ y tế sẽ làm cho việc triển khai công tác dân số ngày càng khó khăn hơn.

Mặt khác, nguồn lực đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ còn quá thấp, chưa tương xứng với yêu cầu. Những năm qua, ngân sách trung ương cấp cho công tác dân số ngày càng hạn hẹp, trong khi nguồn viện trợ từ các dự án nước ngoài hiện đã bị cắt giảm tối đa… Tại địa phương, ngân sách sở tại cấp cho ngành Dân số có sự chênh lệch giữa các tỉnh, các vùng. Thậm chí có tỉnh không hỗ trợ kinh phí cho công tác đặc biệt quan trọng này. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành Dân số ở địa phương ngày càng thiếu thốn, xuống cấp…

2. Trước thực trạng trên, đòi hỏi phải có chính sách dân số phù hợp với thực tế để giúp cho công tác dân số hiệu quả hơn. Ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới. Lần đầu tiên trong suốt 25 năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định nếu duy trì chính sách giảm sinh quá lâu sẽ để lại những hệ lụy rất khó giải quyết. Vì vậy, trong Nghị quyết 21-NQ/TW, điểm mới đáng chú ý đầu tiên về công tác dân số trong tình hình mới chính là việc: “Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.

Nghị quyết cũng xác định các vấn đề trọng tâm ưu tiên của công tác dân số trong tình hình mới với mục tiêu chung: “Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế – xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”.

Đồng thời xác định, đến năm 2030: duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người; giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc có rất ít người.

Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỷ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%. Tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung. Chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á.

Ngay sau khi Nghị quyết số 21-NQ/TW ra đời, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW (Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017). Trong đó, xác định rõ nội dung, nhiệm vụ chủ yếu để các bộ, ngành, địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW.

Trên cơ sở đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, của cả hệ thống chính trị và nhân dân đối với công tác dân số trong tình hình mới. Đồng thời, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước trong việc tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang DSVPT; khắc phục những hạn chế, tồn tại trong công tác dân số thời gian qua, bảo đảm thực hiện đạt các chỉ tiêu cụ thể của Nghị quyết số 21-NQ/TW đề ra, góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững. Chính phủ cũng xác định 42 đề án cần được xây dựng, ban hành cho đến năm 2020, trong đó 7 đề án cần được xây dựng hoàn thành trong năm 2018.

Sau khi có Nghị quyết của Trung ương, nhiều tỉnh, thành phố đã tập trung xây dựng và ban hành chương trình hành động của địa phương mình. Tuy nhiên, qua theo dõi của Tổng cục DS-KHHGĐ, đến tháng 10/2018, vẫn còn 30 tỉnh, thành phố chưa ban hành chương trình hành động; 32 tỉnh chưa ban hành kế hoạch hành động của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết về công tác dân số trong tình hình mới. Đây là một trong những khó khăn trong việc thực hiện các mục tiêu của công tác dân số trong thời gian tới5.

3. Như vậy, để thực hiện thành công Nghị quyết 21-NQ/TW, cùng với triển khai đồng bộ hệ thống 7 giải pháp mà Nghị quyết đã xác định (bao gồm các giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo; truyền thông thay đổi hành vi; xây dựng pháp luật và chính sách; củng cố và phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ; đầu tư và quản lý tài chính; củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy và hợp tác quốc tế), cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cấp bách sau:

Thứ nhất, tiếp tục tổ chức học tập, quán triệt và phổ biến nội dung Nghị quyết số 21-NQ/TW đến các cơ quan, địa phương, tổ chức và tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội về chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang DSVPT. Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về dân số và sức khỏe sinh sản, đặc biệt là sự chuyển hướng trọng tâm từ DS-KHHGĐ sang DSVPT, nắm chắc hệ thống 6 mục tiêu tổng quát và 23 chỉ tiêu cụ thể của chính sách dân số mới, vì những mục tiêu này chính là cụ thể hóa bước chuyển trọng tâm chính sách dân số “từ kế hoạch hóa gia đình sang DSVPT”.

Mở rộng toàn diện nội dung truyền thông, giáo dục cả về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh tế – xã hội; duy trì mức sinh thay thế, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, tận dụng cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt. Xây dựng nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động phù hợp với thực trạng mức sinh của từng vùng, đối tượng theo hướng sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao, sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp, duy trì mức sinh thay thế trên toàn quốc.

Thứ hai, khẩn trương xây dựng và ban hành chiến lược, pháp luật và chính sách dân số cho giai đoạn mới. Ngày 31/12/2017, Chính phủ đã có Nghị quyết số 137/NQ/CP về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới. Nghị quyết 137/NQ/CP xác định 42 đề án cần được xây dựng, ban hành cho đến năm 2020, trong đó 7 đề án cần được xây dựng hoàn thành trong năm 2018. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có đề án nào có khả năng hoàn thành đúng thời hạn. Việc chậm trễ trong xây dựng và ban hành các đề án ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/W, kéo dài tình trạng lúng túng, mất phương hướng trong công tác dân số ở một số địa phương. Do đó, cần khẩn trương huy động lực lượng, các chuyên gia, các nhà quản lý có kinh nghiệm nỗ lực xây dựng và hoàn thành đúng hạn các đề án này.

Bên cạnh đó, cần lồng ghép các mục tiêu DSVPT vào nội dung chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội do bộ, ngành, địa phương chủ trì xây dựng và thực hiện. Đưa dân số thành một chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; lồng ghép các nội dung về dân số vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở đào tạo do bộ, ngành, địa phương quản lý.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số, xây dựng dự án Luật Dân số theo hướng điều chỉnh toàn diện, đồng bộ các nội dung về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số, phù hợp với Hiến pháp và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 theo hướng chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang DSVPT, phát huy lợi thế dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số. Rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh theo hướng chi tiết, cụ thể, phù hợp với chế tài xử lý mạnh hành vi vi phạm; khắc phục tình trạng lạm dụng khoa học – công nghệ lựa chọn giới tính thai nhi; làm rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong ngăn ngừa và phát hiện vi phạm.

Thứ tư, tăng cường đầu tư nguồn lực và xây dựng cơ chế quản lý có hiệu quả việc sử dụng kinh phí đầu tư cho công tác dân số. Bảo đảm cân đối đủ nguồn vốn đầu tư cho các nội dung công tác DSVPT do ngân sách nhà nước bảo đảm; đồng thời, xây dựng chính sách, kế hoạch cụ thể huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước để thực hiện, hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết số 21-NQ/TW. Rà soát, bổ sung chương trình vận động các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ cho các chương trình, dự án về DSVPT. Rà soát, bổ sung nội dung, định mức chi công tác dân số trong phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước, phân cấp cho địa phương tại Quyết định số 46/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng, vận hành các cơ sở dịch vụ nâng cao chất lượng dân số, chăm sóc người cao tuổi.

Thứ năm, kiện toàn, ổn định tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác dân số từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, thực hiện chức năng quản lý và điều phối có hiệu quả công tác dân số trong tình hình mới. Tổ chức bộ máy làm công tác dân số phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống nhất… Đặc biệt, cần tiếp tục chuẩn hóa đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành, đáp ứng yêu cầu chuyển hướng trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang DSVPT. Nghiên cứu, ban hành hệ thống mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp tương ứng làm cơ sở cho tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ làm công tác dân số các cấp.

Xây dựng Đề án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, cán bộ làm công tác hoạch định chính sách ở các cấp, các ngành trong cả nước. Rà soát, xây dựng, ban hành chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cộng tác viên dân số ở thôn, bản, tổ dân phố… để đội ngũ này yên tâm cống hiến và hoạt động có hiệu quả.

Thứ sáu, xây dựng, ban hành Kế hoạch kiện toàn hệ thống thanh tra chuyên ngành; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành dân số; thực thi thanh tra, kiểm tra việc chấp hành, xử lý các hành vi vi phạm. Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích tập thể, cá nhân thực hiện tốt chính sách dân số.

Tăng cường hợp tác quốc tế: chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế về DSVPT. Tích cực tham gia, chia sẻ kinh nghiệm với các tổ chức, diễn đàn đa phương, song phương về DSVPT, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tranh thủ sự đồng thuận, hỗ trợ về tri thức, kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế về DSVPT. Xây dựng, tổ chức đàm phán, thực hiện các chương trình, dự án DSVPT nhằm tranh thủ hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật của các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ. Xây dựng, triển khai kế hoạch, tập trung nguồn lực thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc về dân số mà Việt Nam đã ký kết, tham gia.

Chú thích:
1, 2, 3. Báo cáo của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình tại Lễ mít tinh kỷ niệm Ngày dân số thế giới 11/7, ngày 11/7/2109.
4. Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển: Cơ hội và thách thức. http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 19/3/2018.
5. Báo cáo tại Hội nghị tập huấn phổ biến văn bản của Đảng, Chính phủ và kỹ năng tham mưu, tổng hợp thông tin về công tác dân số trong tình hình mới của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), ngày 17/10/2018.

PGS.TS.  Phạm Hương Trà
Học viện Báo chí và Tuyên truyền