Để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển

(QLNN)- Bước sang thế kỷ XXI, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng khoa học – công nghệ phát triển như vũ bão, trước bối cảnh nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất liền ngày càng cạn kiệt, việc “vươn ra biển” đã trở thành xu thế chủ đạo của các quốc gia có biển; thậm chí một số quốc gia không có biển cũng tìm mọi cách để tiếp cận với biển nhằm tranh thủ các điều kiện thuận lợi, nguồn tài nguyên từ biển để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Đối với Việt Nam, việc tổng kết những thành công, hạn chế và bài học kinh nghiệm qua 10 năm triển khai Chiến lược biển để đề xuất định hướng, giải pháp mới trong thời gian tới là điều cấp thiết.
Đảo Trường Sa
Tư duy lý luận về Chiến lược biển Việt Nam

Sau gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt qua hơn 10 năm thực hiện Chiến lược biển, tiềm lực biển của nước ta đã không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tư duy nhận thức của Đảng ta và xã hội về vai trò của biển cũng không ngừng được bổ sung, từng bước hoàn thiện phát triển.

Ngày 02/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, phát triển kinh tế – xã hội vùng biển, hải đảo, ven biển phải gắn kết với yêu cầu bảo vệ đất nước, Đảng ta chủ trương đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước, trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.

Trong bối cảnh mới ở trong nước và quốc tế, nhằm tiếp tục phát huy, khai thác sử dụng hiệu quả các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”. Đây là lần đầu tiên sau quá trình chuẩn bị, phát triển nhận thức lý luận, Việt Nam đã xây dựng và ban hành Chiến lược biển tổng thể, toàn diện nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò to lớn và quan trọng của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, nhận thức của xã hội, người dân về các nội dung của Chiến lược biển từng bước được nâng lên.

Nghị quyết đã xác định định hướng và mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế biển đến năm 2020 trên lĩnh vực kinh tế – xã hội; chiến lược quốc phòng – an ninh – đối ngoại; phát triển khoa học – công nghệ (KHCN) biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển, hợp tác quốc tế. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 60-KL/TW ngày 16/4/2013 sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; theo đó, Bộ Chính trị đề ra phương hướng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 09-NQ/TW.

Theo tinh thần Nghị quyết số 09-NQ/TW trong bối cảnh mới, nhận thức của Đảng ta tại Đại hội XII (tháng 01/2016) về Chiến lược biển có bước phát triển mới khi xác định chủ trương: “Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển đảo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai thác và chế biến hải sản, các dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển, đảo. Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng biển đảo”1.

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 và trên cơ sở tổng kết, Chính phủ ban hành Chương trình hành động tại Nghị quyết số 84/2015/NQ-CP ngày 10/12/2015 nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP. Đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định về quản lý nhà nước, thực hiện các chủ trương, chính sách chiến lược, quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh – đối ngoại liên quan đến biển đảo.

Về tổ chức triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam

Qua hơn 10 năm triển khai Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã đạt được những thành tựu quan trọng, như: góp phần nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và toàn xã hội về vai trò của biển, tập trung trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân về chủ quyền, phát triển biển, đảo của Tổ quốc. Bảo đảm giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, năng lực và khả năng tác chiến của các lực lượng bảo đảm an ninh – quốc phòng trên biển từng bước được nâng cao, hiện đại hóa. Trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo, đồng thời thu hút các nguồn lực theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.

Một số ngành, lĩnh vực kinh tế biển đã có bước phát triển nhanh, từng bước hình thành một số cảng có tầm cỡ khu vực như cảng Cái Mép – Thị Vải, sản lượng và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tăng cao, du lịch biển có bước phát triển, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP, đã có sự kết hợp giữa khai thác và nuôi trồng hải sản; công tác điều tra tài nguyên môi trường biển được chú trọng hơn, hạ tầng cơ sở biển được cải thiện từng bước cả về đường bộ ven biển và hệ thống cảng hàng không.

Ngoài kết quả đạt được, việc triển khai Chiến lược biển trong 10 năm qua cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém như:

Một số mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong nghị quyết về phát triển kinh tế biển và ven biển chưa đạt được (như chỉ tiêu đóng góp của kinh tế biển và ven biển khoảng 53 – 55% tổng GDP của cả nước, thu nhập bình quân đầu người của người dân vùng biển và ven biển cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước). Về tổng thể, quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành, nghề chưa hợp lý, mới phát triển một phần ở vùng biển quốc gia, chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế, phương thức khai thác kinh tế biển chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ.

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 chưa dự báo và đánh giá sự điều chỉnh chiến lược biển của các nước lớn như Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt là những xu hướng mới như tình trạng gia tăng căng thẳng trên Biển Đông, liên quan đến các nội dung về an ninh – quốc phòng và đối ngoại trên biển.

Mặc dù trong Nghị quyết đã nêu định hướng phát triển KHCN biển, xác định phát triển KHCN biển phải trở thành động lực của phát triển, tuy nhiên, việc phát triển KHCN biển còn chưa đầy đủ và trên thực tế, khả năng KHCN biển còn hạn chế. Trong Nghị quyết, phần giải pháp có nêu định hướng đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ triển khai Chiến lược biển (từ cấp quản lý vĩ mô đến nguồn nhân lực của các ngành liên quan đến kinh tế biển, ngư dân) tuy nhiên, việc nhận thức còn chưa sâu sắc, đầy đủ, do vậy, việc triển khai đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ triển khai Chiến lược biển còn lúng túng, thiếu đồng bộ.

Tình trạng quản lý nhà nước về biển, đảo chưa đủ mạnh, thiếu sự tập trung thống nhất; phân công, phân cấp phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, trong thực hiện thiếu sự kiểm tra đôn đốc và còn hiện tượng chồng chéo, thiếu phối hợp. Công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh mặc dù được chú trọng song chưa thực hiện được mục tiêu như Nghị quyết đề ra. Thực tế trong hơn 10 năm qua, hiện tượng đầu tư theo phong trào không theo quy hoạch thống nhất về cảng biển, đánh bắt xa bờ… còn diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương); tình trạng phát triển kinh tế biển, xây dựng kết cấu hạ tầng biển đảo còn mang tính dàn đều, thiếu đầu tư chiều sâu, đủ mức để tạo nhanh đột phá cho phát triển hạ tầng quốc gia liên vùng.

Việc nhận thức về xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh làm chủ lực để phát triển kinh tế biển trong một số lĩnh vực như dầu khí, vận tải biển… chưa đồng bộ, trong khi cơ chế quản lý và giám sát không chặt chẽ, cộng thêm năng lực phẩm chất của cán bộ quản lý các tập đoàn quy mô lớn còn hạn chế, yếu kém, đã dẫn đến tình trạng làm ăn kinh doanh thua lỗ, thất thoát tài sản, tham nhũng trầm trọng tại Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn VINASHIN, VINALINE.

Nhận thức về bảo vệ môi trường biển và ven biển, phòng, chống thiên tai đã được xác định trong Nghị quyết, tuy nhiên, việc quán triệt của các ngành, các cấp chưa toàn diện, dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt nguồn lợi thủy sản, không sử dụng bền vững tài nguyên biển, môi trường biển xuống cấp trầm trọng ở nhiều nơi. Việc khai thác quá “nóng” tài nguyên biển dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, chưa chú trọng đến phát triển bền vững còn xảy ra ở nhiều địa phương; việc thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa đồng bộ, hiệu quả còn hạn chế.

Nguyên nhân khách quan do bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi theo hướng bất lợi cho Chiến lược biển của nước ta, như cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu nổ ra năm 2008 – 2009, giá dầu thô sụt giảm nhanh chóng, sự cạnh tranh khốc liệt của các hãng tàu lớn trong ngành vận tải biển, việc thu hẹp ngư trường truyền thống, sự suy giảm nguồn lợi thủy sản nghiêm trọng. Bên cạnh đó, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng, những diễn biến phức tạp về an ninh, chủ quyền trên Biển Đông đã tác động không thuận đối với việc triển khai Chiến lược biển của Việt Nam trong 10 năm qua.

Bên cạnh đó, ngoài việc Chiến lược biển xác định các mục tiêu, nhiệm vụ còn chưa phù hợp, mang tính chủ quan, việc nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành mặc dù được nâng lên, song còn chưa đầy đủ, đồng bộ2.

Bộ máy, phương thức quản lý nhà nước về biển đảo nhìn chung còn nhiều hạn chế. Một số cơ chế, chính sách phát triển kinh tế biển chưa phù hợp, hiệu quả không cao, thậm chí bị lợi dụng, như chương trình đánh bắt xa bờ, đề án trang bị tàu sắt cho ngư dân hiệu quả thấp, vấn đề thu hút khuyến khích người dân ra đảo định cư còn gặp nhiều khó khăn. Nguồn lực đầu tư cho kinh tế biển, các dự án trọng điểm còn bị phân tán, dàn trải, thiếu sự tập trung thống nhất nên chưa phát huy tốt nhất hiệu quả; trình độ KHCN biển và đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực biển chưa được quan tâm đầu tư đúng mức để tạo bước phát triển mới.

Ảnh minh hoạ: Internet
Bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra đối với Chiến lược biển Việt Nam trong thời gian tới

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có sự thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, tăng trưởng của kinh tế thế giới và khu vực đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên, tình hình chính trị – an ninh diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố bất ổn, khó lường tác động đến chiến lược biển của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Xuất hiện những xu hướng mới như sự chuyển dịch quyền lực của các nước lớn, tăng cường sự cạnh tranh chiến lược tại nhiều khu vực trên thế giới, nhất là tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông. Các nước lớn vừa gia tăng cọ sát trong các vấn đề mang tính chiến lược, vừa tăng cường lôi kéo các nước nhỏ và tập hợp lực lượng trong việc triển khai điều chỉnh chiến lược biển của mình. Hai xu hướng bảo hộ và tự do hóa thương mại cọ sát nhau gay gắt mà hai đại diện chủ yếu là sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc.

Ngoài tác động của các yếu tố an ninh – quốc phòng, cạnh tranh các nước lớn trong bối cảnh mới thì tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tạo ra cơ hội và thách thức trong việc khai thác sử dụng các tiềm năng to lớn của biển cũng như thách thức trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh từ triển khai chiến lược biển của các quốc gia, như giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tình hình cạn kiệt nguồn tài nguyên biển, ô nhiễm môi trường.

Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới của sự phát triển với những thời cơ, thuận lợi, cùng thách thức, khó khăn; bên cạnh những kết quả đạt được, đất nước cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn về tiềm lực, sức cạnh tranh còn hạn chế của nền kinh tế, các nguồn lực đầu tư phát triển còn eo hẹp, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về biển còn hạn chế…

Xuất phát từ thực tiễn đất nước trong bối cảnh mới của khu vực, thế giới trong thời gian tới; qua tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW về Chiến lược biển Viêt Nam đến năm 2020, từ đó đề xuất với Trung ương xem xét, ban hành Nghị quyết mới về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để tập trung lực lượng, sức mạnh, phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ảnh minh hoạ: Internet
Mục tiêu và một số giải pháp

Mục tiêu tổng quát phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo vệ tốt môi trường đa dạng sinh học biển, bảo đảm giữ vững chủ quyền biển đảo của đất nước; đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển tầm cỡ trong khu vực và trên thế giới, chuẩn bị đủ các điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế.

Mục tiêu cụ thể:

+ Về kinh tế: tập trung nguồn lực, phát triển có trọng điểm các ngành kinh tế biển (du lịch biển, đảo; kinh tế hàng hải, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, dịch vụ; phát triển công nghiệp đóng tầu, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế mới); phát triển các trung tâm kinh tế ven biển; kết cấu hạ tầng khu vực ven biển và các đảo phát triển đồng bộ. Phấn đấu đến năm 2030, kinh tế biển chiếm 60% GDP của cả nước, thu nhập bình quân đầu người cao gấp 50% so với thu nhập bình quân chung của cả nước.

+ Về quốc phòng – an ninh – đối ngoại: củng cố, tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân, bảo đảm an ninh, nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của đất nước để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

+ Về văn hóa, xã hội: giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên vùng biển, đảo, ven biển; bảo đảm việc làm, cải thiện đời sống, nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, phát triển các hoạt động văn hóa cho nhân dân vùng biển đảo; xây dựng nền văn hóa biển Việt Nam.

+ Về môi trường: bảo vệ tốt môi trường và đa dạng sinh học biển, bảo đảm phát triển bền vững biển và các vùng ven biển. Chủ động phòng, chống, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng.

Để đạt được các mục tiêu nói trên, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức, tăng cường tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng về biển đảo của Tổ quốc, xây dựng và thực hiện định hướng chiến lược biển thống nhất trong giai đoạn tới là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân nên để tạo sức mạnh tổng hợp có thể phổ biến công khai Chiến lược biển. Chiến lược bao gồm các định hướng chung thống nhất, nội dung cụ thể sẽ do các bộ, ngành địa phương triển khai; phần quốc phòng, an ninh, đối ngoại có quy định riêng.

Hai là, tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về Chiến lược biển, tăng cường phối hợp chặt chẽ các cấp, ngành và liên kết các thành phần kinh tế trong thực hiện Chiến lược biển.

Ba là, đẩy mạnh xây dựng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về biển đảo. Tập trung xây dựng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thực hiện Luật Biển Việt Nam năm 2013, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, Luật Thủy sản năm 2017, Luật Quy hoạch năm 2017 và một số luật khác mới được ban hành liên quan đến biển đảo, tạo điều kiện cơ sở pháp lý để phát triển một số đặc khu kinh tế ven biển có tầm quốc tế.

Bốn là, đổi mới đồng bộ, mạnh mẽ thể chế, cơ chế chính sách cho phát triển kinh tế biển. Cơ cấu lại tổng thể các ngành kinh tế biển theo hướng liên kết chặt chẽ các ngành, gắn kết phát triển các ngành kinh tế với phát triển các vùng, trung tâm kinh tế biển, doanh nghiệp biển. Xây dựng và mở rộng các mô hình quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp tiêu chuẩn quốc tế; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách vượt trội cho một số địa phương, địa bàn được xác định đóng vai trò trung tâm kinh tế biển mạnh của cả nước; tập trung đầu tư có hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, đô thị ven biển và hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ.

Năm là, áp dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào thực hiện các mục tiêu của Chiến lược biển quốc gia, nhất là chuyển từ kinh tế biển chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, khai thác tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường sang kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, KHCN, nguồn nhân lực chất lượng cao, phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của biển Việt Nam.

Sáu là, bảo đảm các nguồn lực, tập trung đầu tư để thực hiện Chiến lược biển, nhất là định hướng phát triển KHCN, phát triển nguồn nhân lực biển, tiếp tục đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu kinh tế quốc phòng trên biển. Tăng cường hợp tác quốc tế về biển.

Bảy là, coi trọng và tăng cường công tác quy hoạch, kế hoạch, nghiên cứu dự báo trong triển khai thực hiện Chiến lược biển./.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr. 288 – 289.
2. Có nhiều địa phương sau khi Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 được ban hành thì hơn 2 năm sau mới có chương trình hành động của địa phương mình. Tình trạng liên minh châu Âu (EU) ra phán quyết áp dụng thẻ vàng đối với thủy sản Việt Nam cho thấy ngư dân của chúng ta còn thiếu ý thức về luật pháp quốc tế, trong việc đánh bắt thủy sản xa bờ không rõ nguồn gốc xuất xứ.
PGS.TKHS. Trần Nguyễn Tuyên
Hội đồng Lý luận Trung ương