Nâng cao năng lực hệ thống giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá – điện đại hoá và hội nhập quốc tế

(QLNN) – Giáo dục đại học giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực làm nòng cốt trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế giáo dục đại học càng giữ vai trò quan trọng. Chất lượng giáo dục đại học không chỉ quyết định chất lượng nguồn nhân lực mà nó sẽ kéo theo sự thăng hoa của chất lượng giáo dục ở cấp trung học, tiểu học và mẫu giáo đặc biệt đối với hệ thống các đại học sư phạm.

 

Cả nước hiện có 235 trường Đại học, trong đó công lập 170 trường, ngoài công lập có 65 trường
Thực trạng hệ thống giáo dục Đại học Việt Nam

Hiện tại, theo số liệu thống kê năm học 2016 – 2017 cả nước ta có 235 trường Đại học, trong đó công lập 170 trường, ngoài công lập có 65 trường. Toàn ngành có 72.792 giảng viên, trong đó tiến sĩ có 16.514 người, thạc sĩ có 43.127 người, chuyên khoa 1 và 2 có 523 người, còn lại là Đại học, cao đẳng và trình độ khác.

Hệ thống giáo dục đại học ở nước ta phân bố không đồng đều trong các vùng miền và cơ cấu ngành nghề đào tạo còn nhiều bất cập. Đa phần các trường đại học tập trung ở đồng bằng và các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, Thái Nguyên … Nhiều trường đại học nhưng quy mô nhỏ, có trường diện tích chỉ 2,3 ha ngay ở Hà Nội. Hệ thống giáo dục đại học trong những năm đổi mới đã phát triển ồ ạt, tự phát, nhiều trường quy mô nhỏ, ngành nghề đào tạo chồng chéo, nguồn lực đội ngũ giáo viên mỏng. Các đại học tư thục phần lớn giáo viên không được đào tạo và chỉ thu hút đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên nghỉ hưu, đội ngũ giáo viên chủ yếu là hợp đồng từ các trường công lập.

Quá trình CNH, HĐH đất nước đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, các ngành chế tạo, thuyền trưởng, phi công, lái tàu, kiến trúc sư, bác sĩ, quản trị kinh doanh, du lịch nhưng các cơ sở giáo dục đại học trong nhiều lĩnh vực còn hạn chế các đội ngũ thầy giáo, cơ sở thực hành, thực tập, đặc biệt là đội ngũ giáo viên ngoại ngữ chuyên ngành và các giáo sư đầu ngành.

Giáo dục bậc cao như thạc sĩ, tiến sĩ không đào tạo tập trung, ngoại ngữ yếu nên không tiếp cận được kịp thời kiến thức hiện đại của thế giới. Chương trình, giáo trình biên soạn thiếu đồng bộ, chưa nhanh chóng tiếp cận với chương trình, giáo trình hiện đại của thế giới để thực hiện đào tạo liên thông với các cơ sở giáo dục đại học quốc tế. Số giáo viên được đào tạo ở nước ngoài còn ít. Số giáo viên Việt Nam tham gia giảng dạy ở các trường đại học quốc tế lại càng ít. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo còn hạn chế. Năm 2017 chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo là 215.167 tỷ đồng. Cơ sở vật chất các trường đại học có phần cải thiện trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung trong toàn hệ thống còn thiếu so với yêu cầu.

Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học

Để nâng cao năng lực hệ thống giáo dục đại học cần qui hoạch lại mạng lưới. Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học. Hy vọng sửa đổi Luật sẽ cải thiện một phần giáo dục đại học. Sửa đổi Luật là cần, nhưng cái quan trọng, cần thiết và cấp bách hiện nay là phải xây dựng được chiến lược phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong thời đại cuộc cách mạng công nghệ 4.0 mà qui hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học là nội dung thiết yếu.

Để quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học chúng ta cần thay đổi mô hình quản lý Nhà nước về giáo dục, sắp xếp lại các cơ sở giáo dục theo vùng, theo ngành và đổi mới mô hình quản lý đại học.

2.1 Đổi mới mô hình quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo

Hiện tại quản lý Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo ở nước ta theo mô hình kiểm soát, các cơ sở đại học và dạy nghề có quá nhiều Bộ, ngành quản lý. Hầu như Bộ, ngành và các địa phương đều có cơ sở đại học. Một quốc gia có quá nhiều Bộ, ngành quản lý Nhà nước về đại học, làm sao để thực hiện quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, khi cả thế giới đã bỏ mô hình quản lý kiểm soát chuyển sang mô hình giám sát và mở quyền tự chủ cho các cơ sở đại học đào tạo theo kỷ năng và sáng tạo. Bởi vậy, để quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, công việc trước hết là phải thay đổi cách thức quản lý Nhà nước đối với giáo dục Đại học. Bỏ các Bộ chủ quản và giao quản lý Nhà nước về giáo dục, đào tạo cho một Bộ chủ trì, đó là Bộ giáo dục và đào tạo. Bộ giáo dục và đào tạo phải làm đúng chức năng quản lý Nhà nước, xây dựng chiến lược, qui hoạch, giám sát và đặc biệt phân loại, đánh giá chất lượng đào tạo của các cơ sở Đại học, trên cơ sở mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở Đại học.

2.2. Sát nhập các trường nhỏ thành các đại học lớn đa ngành, đa lĩnh vực

Qui hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học quy mô lớn cần sát nhập các trường nhỏ đơn ngành vào các trường lớn để tạo ra các cơ sở đại học đa ngành, đa lĩnh vực và không còn cơ sở đào tạo đơn ngành. Tất cả các cơ sở đại học đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực gọi chung là đại học, dưới đại học là các Viện như mô hình các đại học ở Trung Quốc.

Mô hình tổ chức của đại học công lập tự chủ, cần có Hội đồng trường. Hội đồng trường là đại diện chủ sở hữu ở các cơ sở Đại học công lập, do đó chức năng chủ yếu của Hội đồng trường là quản trị tài chính và nhân lực của đại học. Như vậy, Hội đồng trường cần có ở đại học còn các viện trong đại học không cần có Hội đồng trường. Hạt nhận cơ bản của các cơ sở đại học là bộ môn, còn Hội đồng trường chỉ là những người tham gia quản lý cùng với Ban giám hiệu dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy. Các trường tư thục đơn ngành có thể sát nhập vào các trường lớn công lập hoặc tư thục để có các cơ sở đại học đa ngành, đa lĩnh vực qui mô lớn.

Các trường đại học công lập trong điều kiện cụ thể cũng cần có thêm các cơ sở tư thục để xã hội hóa một phần tài chính. đại học đa ngành, đa lĩnh vực có thể theo mô hình đa cấp từ mầm non, phổ thông, giáo dục nghề và đại học để liên thông dễ dàng giữa các cấp, các trình độ đào tạo: Trung cấp, Cao đẳng, Đại học. Các cấp trình độ thấy có thể là tư thục trong các đại học công lập. Các đại học công lập ở địa phương nên là đa cấp theo mô hình đại học cộng đồng mà nhiều khi trên thế giới đã thực hiện rất thành công phát triển và nâng cao chất lượng đại học tư thục cần được Nhà nước quan tâm khuyến khích. Đa phần các đại học ở Mỹ và nhiều nước là tư thục và nhiều đại học đứng hàng đầu thế giới về chất lượng là tư thục.

2.3. Tăng quyền tự chủ ở các cơ sở giáo dục đại học

Qui hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải gắn với việc tăng cường quyền tự chủ Đại học để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại học phải có đội ngũ giáo viên giỏi, sinh viên giỏi. Các cơ sở giáo dục đại học phải có năng lực quản trị giỏi theo hướng tự chủ. Ngân sách cho giáo dục Đại học từ nguồn của Nhà nước, nguồn tài chính của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước phải đủ mạnh. Cơ sở đại học ứng dụng phải tạo ra nguồn tài chính mạnh do nhiều hoạt động mang lại. Tài chính của cơ sở đại học tự chủ không phải từ nguồn học phí trong đào tạo mà còn từ nguồn nghiên cứu khoa học, dịch vụ và nguồn tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nươc, nhất là tài trợ của cựu sinh viên. Bộ máy quản trị tài chính của đại học phải chuyên nghiệp để sử dụng hiệu quả nguồn tài chính có được. Bởi vậy đại học công lập cần có hội đồng trường mạnh và người đứng đầu phải có chuyên môn tài chính giỏi để quản trị đại học như một doanh nghiệp lớn. Tự chủ đại học là từng đại học phải đổi theo hướng quản trị hiệu quả mọi nguồn lực của mình để cạnh tranh và phát triển

Nâng cao năng lực hệ thống giáo dục Đại học

Trung Quốc tiến hành ba cuộc cải cách lớn là cải cách hành chính, cải cách doanh nghiệp, cải cách giáo dục để đến năm 2035 trở thành cường quốc giáo dục. Trung Quốc đang xây dựng và thực hiện chiến lược giáo dục đến năm 2030 phổ cập Đại học. Cải cách giáo dục để đào tạo nhân tài và xây dựng xã hội học tập, đến nay đã phổ cập 100% trung học cơ sở, 85% trung học phổ thông, 50% Đại học. Năm 2017 kinh phí cho giáo dục 4% GDP, trong đó đầu tư cho Đại học là 25%, có nhiều kênh đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Trung Quốc đang xây dựng 42 đại học trọng điểm thành tốp đầu thế giới, 59 ngành hàng đầu thế giới. Số lượng đại học được gom lại, quản trị đại học được đổi mới, tư duy cải cách giáo dục được kế thừa không bị theo nhiệm kỳ.

Để hiện đại hóa giáo dục, Trung Quốc coi trọng việc đào tạo đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên sư phạm. Ưu tiên đào tạo nhân tài và sư phạm. Cơ sở Đại học các ngành nghề đào tạo phải rõ ràng, mỗi ngành đều có giáo sư đầu ngành và thu hút, mời giáo sư nước ngoài. Do bỏ các Bộ chủ quản, các cơ sở đại học sát nhập với nhau thành đại học lớn. Đội ngũ giáo viên có trình độ cao, nhiều Đại học có hàng trăm giáo sư, Đại học Bắc Kinh, Vũ Hán có trên 1.000 giáo sư. Đào tạo kỹ năng, đặc biệt là ngoại ngữ trở thành phổ biến.

Đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ tập trung. Nhiều bài học về hiện đại hóa giáo dục đại học của Trung Quốc và các nước, chúng ta cần đổi mới tư duy để nâng cao năng lực hệ thống giáo dục Đại học nước nhà.

Chúng ta mong muốn đến năm 2030 có khoảng 20 đại học hàng đầu khu vực và khoảng 10 Đại học trong tốp 1.000 Đại học thế giới thì ngay bây giờ phải có chiến lược và hành động.

Trước hết là phải xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi, sinh viên giỏi để đào tạo kỹ năng về tin học, kỹ năng ngoại ngữ, kỹ năng nghề thích ứng với các ngành nghề hiện đại. Muốn vậy, phải cử một đội ngũ thanh niên ra nước ngoài được đào tạo ở các Đại học danh tiếng. Các Đại học phải tự tuyển để có học sinh giỏi vào học. Chương trình, sách giáo khoa phải đổi mới tiếp cận với các Đại học hàng đầu quốc tế.

Hai là, phải đa dạng hóa các nguồn tài chính để các cơ sở đại học đủ khả năng thu hút người tài trong và ngoài nước đến giảng dạy, biên soạn chương trình, giáo trình hiện đại. Cần coi trọng công tác quốc tế để tạo thành sức mạnh của đại học. Khuyến khích các đại học danh tiếng có cơ sở đặt tại Việt Nam để thu hút con em Việt Nam và nước ngoài đến học.

Ba là, phải nhanh chóng đổi mới mô hình quản lý và quản trị đại học. Quản lý Nhà nước về giáo dục, đào tạo phải theo tư duy mới, nhanh hơn, hiệu quả hơn để giao quyền tự chủ cho các cơ sở đại học. Các cơ sở Đại học phải nhanh chóng tiếp cận với mô hình quản trị đại học về tài chính, nhân sự và chuyên môn. Tổ chức bộ máy quản trị đại học phải tinh gọn, giảm trung gian để tiết kiệm tài chính.

Nhà nước cần có một Hội đồng giáo dục Quốc gia đủ mạnh để xây dựng chiến lược và quy hoạch lại hệ thống giáo dục đại học hiện đại. Nâng cao năng lực hệ thống giáo dục đại học là con đường sớm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đầu tư cho hệ thống giáo dục đại học là đầu tư cơ bản hàng đầu trong hệ thống cơ sở hạ tầng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cần sớm đổi mới tư duy và hành động để nâng cao năng lực hệ thống giáo dục đại học mà từng cơ sở đại học phải đi đầu tự đổi mới.

Nguyễn Đinh Hương