Thể chế hoá văn hoá công vụ – yêu cầu cấp thiết hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Đề án Văn hóa công vụ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018, trong đó chỉ ra những nội dung cơ bản của văn hóa công vụ, đồng thời đưa ra các giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện. Theo đó, đòi hỏi thể chế hóa văn hóa công vụ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn cấp thiết hiện nay.

 

Chuẩn mực hành vi trong thực thi công vụ của CBCCVC nhà nước là động lực của cải cách hành chính theo hướng dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả
Quan niệm về văn hóa công vụ

Văn hóa công vụ (VHCV) làm cho hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) nhà nước mang tính tự giác, chủ động và sáng tạo. VHCV, với tư cách tiểu hệ thống của văn hóa chính trị – cốt lõi của nó là đạo đức công vụ. VHCV thể hiện ở hai phương diện cơ bản: công vụ với ý nghĩa là công vụ dân chủ, tiến bộ nhất thiết phải vì Nhân dân, phục vụ Nhân dân; là những chuẩn mực giá trị công vụ thể hiện trong đường lối, chính sách, pháp luật, trong ứng xử và trong việc triển khai các kế hoạch cụ thể nhằm phát triển xã hội và phục vụ cuộc sống của cá nhân cũng như của cộng đồng xã hội1.

VHCV là văn hóa của việc thực thi quyền lực nhà nước trong quản lý các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. VHCV chứa đựng các giá trị và chuẩn mực chung, được mọi thành viên trong tổ chức nhà nước thừa nhận và thực hiện. Chính điều này tạo nên chuẩn mực hành vi trong thực thi công vụ của CBCCVC nhà nước, đồng thời có vai trò định hình nền nếp, lề lối thực thi công vụ, là động lực của cải cách hành chính theo hướng dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả. Như vậy, VHCV là một hệ thống những giá trị về đạo đức công vụ, lề lối, tác phong, biểu trưng, ngôn ngữ… của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ và nền công vụ phục vụ lợi ích của Nhân dân và phụng sự dân tộc.

VHCV được coi là một trong những nhân tố quyết định việc xây dựng thành công nền công vụ kiến tạo, liêm chính phục vụ nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XII) nhằm đẩy lùi: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”2.

Với ý thức chính trị sâu sắc, góp phần khắc phục thực tế như trên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án VHCV tại Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018. Đề án đã xác định mục tiêu nâng cao VHCV, góp phần hình thành phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ CBCCVC; bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động thực thi, công vụ; đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, xã hội.

Theo đó, đòi hỏi thể chế hóa VHCV ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn cấp thiết:

Thứ nhất, thể chế hóa VHCV từng bước hình thành nên một nền công vụ toàn diện và đồng bộ, điều chỉnh các hành vi và các mối quan hệ của công chức trong thực thi công vụ.

Thứ hai, thể chế hóa VHCV sẽ góp phần cụ thể hoá những nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của người công chức, quy định cụ thể những điều công chức được làmkhông được làm nên làm. Thể chế VHCV cũng góp phần đáp ứng đòi hỏi phải xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai phạm của cán bộ, công chức; xác định rõ trách nhiệm của mỗi công chức, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong thực thi công vụ.

Thứ ba, thể chế hóa VHCV sẽ có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ đó sẽ góp phần tích cực thúc đẩy cải cách hành chính và tạo động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. 

Thể chế hóa VHCV được xem như một giải pháp mang tính chủ động, tạo dựng nền tảng thực hành đạo đức công vụ.
Thực trạng thể chế hoá văn hóa công vụ ở Việt Nam hiện nay

Thể chế hóa VHCV trong hoạt động công vụ ngày càng trở thành một đòi hỏi cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh nền công vụ ở Việt Nam đang rất nỗ lực thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng của cả hệ thống chính trị. Do vậy, việc thể chế hóa VHCV được xem như một giải pháp mang tính chủ động, tạo dựng nền tảng thực hành đạo đức công vụ chắc chắn hơn như thể xây dựng một hệ thống miễn dịch cho nền công vụ trước sức tàn phá âm thầm nhưng gây ra tác hại rất lớn của tham nhũng.

Xây dựng một Chính phủ trong sạch, liêm chính đã trở thành một định hướng lớn trong hoạt động của Chính phủ. Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 09/5/2016 của Chính phủ tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2016 đã nêu rõ nhiệm vụ: “… Xây dựng Chính phủ trong sạch, liêm chính, Chính phủ kiến tạo, phát triển. Khẳng định Chính phủ là công bộc của Nhân dân, gắn bó với Nhân dân, phục vụ Nhân dân. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và chấp hành pháp luật. Tập trung rà soát, cải cách, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách; bảo đảm công bằng, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, lãng phí…3.

Thể chế hóa VHCV hiện nay được nhiều quốc gia trên thế giới tiếp cận theo hệ thống, được phân lớp và có nhiều trụ cột khác nhau, nhưng có hai lớp cơ bản là lớp bên trong và lớp bên ngoài thể chế VHCV. Lớp bên trong gồm những trụ cột có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện đạo đức công vụ; lớp bên ngoài bao gồm các trụ cột có tính chất bổ sung, hỗ trợ cụ thể bằng một hệ thống các giá trị văn hóa. Trong mỗi lớp đều có ba trụ cột chính được nhấn mạnh gồm: công cụ, bộ máy và phương thức thực hiện. Trụ cột công cụ được hiểu là các quy định về chuẩn mực đạo đức công vụ, hướng dẫn thực hiện đạo đức công vụ, giám sát việc thực hiện và xử lý các vi phạm đạo đức công vụ. Trụ cột bộ máy chỉ ra những chủ thể và trách nhiệm của họ trong việc triển khai thực hiện, trụ cột phương thức thực hiện chỉ ra những biện pháp, cách thức để triển khai thực hiện có hiệu quả.

Nội dung các chuẩn mực về thể chế VHCV được chia thành nhiều cấp độ, trong đó có 3 cấp độ chủ yếu gồm: các nguyên tắc chung, chuẩn mực chung và chuẩn mực cụ thể. Nguyên tắc chung là những quy tắc mang tính chất chỉ đạo, định hướng.

Chuẩn mực chung của thể chế VHCV điều chỉnh hành vi ứng xử của tất cả cán bộ, công chức và thường bao gồm các nội dung: chuẩn mực về thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao; chuẩn mực trong việc sử dụng tài sản công, chuẩn mực về trách nhiệm phòng ngừa xung đột lợi ích; chuẩn mực trong các mối quan hệ với đồng nghiệp, với công chúng… nhằm làm gia tăng niềm tin của người dân với Chính phủ.

Chuẩn mực cụ thể hướng tới từng nhóm cán bộ, công chức trong từng cơ quan, tổ chức gắn với vị trí việc làm, với những đặc điểm về nghề nghiệp của cán bộ, công chức.

Thực tế, ở Việt Nam hiện nay các chuẩn mực đạo đức công vụ, VHCV trong hoạt động công vụ đã được quy định và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện thông qua các đạo luật chuyên ngành như: Luật Cán bộ, công chức năm 2008(bổ sung 2019), Luật Viên chức năm 2010 (bổ sung 2019), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung các năm 2007, 2012, 2018. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2013… Tuy nhiên, thực tiễn thi hành các đạo luật quy định về chuẩn mực đạo đức công vụ, VHCV trong thực thi công vụ thời gian qua cho thấy, hiệu quả thực tế của các quy định nói trên là rất hạn chế. Trong Báo cáo 10 năm thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng của Chính phủ đã đánh giá: “tình trạng vi phạm quy tắc ứng xử trên bình diện cả nước còn khá phổ biến; nhiều CBCCVC thậm chí là người đứng đầu chưa quan tâm đúng mức đến việc tổ chức thực hiện; cơ chế giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm nhiều nơi còn thiếu chặt chẽ, không nghiêm, chưa tạo được ý thức tuân thủ rộng rãi các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong hành xử của CBCCVC4.

Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng vi phạm quy tắc ứng xử có tính phổ biến là nguyên nhân về thể chế VHCV còn chung chung, chưa thành hệ thống; tổ chức thực hiện chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí khó áp dụng; cơ chế giám sát, kiểm tra và xử lý còn yếu, nguyên nhân từ ý thức tuân thủ VHCV của cán bộ, công chức không tốt. Công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức thực hành đạo đức công vụ, VHCV chưa thường xuyên, thậm chí mang tính hình thức.

Một số giải pháp xây dựng thể chế văn hóa công vụ

Thứ nhất, cần thống nhất nhận thức và quyết tâm chính trị thực hiện thể chế VHCV trong hoạt động công vụ của cả hệ thống chính trị. Thống nhất được nhận thức chính là cơ sở để thống nhất hành động theo khuôn mẫu. Do đó, trước hết cần phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức chung của CBCCVC, đặc biệt là những CBCCVC lãnh đạo, quản lý, giúp đội ngũ này hiểu rõ về VHCV, nhận thức về ý nghĩa, vai trò của VHCV trong hoạt động công vụ, những giá trị và chuẩn mực phải tuân thủ, ý thức trách nhiệm của mỗi người về xây dựng và thực hiện VHCV.

Cùng với nhận thức đúng đắn về VHCV, toàn bộ hệ thống chính trị cần phải xác định quyết tâm chính trị thực sự. Quyết tâm chính trị thể hiện ở sự cam kết xây dựng và thực hiện VHCV từ những cấp lãnh đạo cao nhất trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Điều này phải được thể hiện bằng những chiến lược và hành động thực tiễn, được cụ thể hóa và công khai để nhân dân giám sát mà không chỉ dừng lại ở những nghị quyết, những lời nói mang tính chất hô hào, đưa ra khẩu hiệu. Quyết tâm chính trị còn phải bao gồm sự cam kết từ các cấp lãnh đạo của các cơ quan khác nhau trong hệ thống chính trị, bao gồm sự gương mẫu của những người đứng đầu, lan tỏa dần xuống những cấp lãnh đạo thấp hơn và tới từng cá nhân CBCCVC.

Thứ hai, rà soát, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện quy định của pháp luật về VHCV, cụ thể là:

– Nghiên cứu để thiết kế các chuẩn mực VHCV theo từng nhóm: (1) Nhóm chuẩn mực áp dụng chung trong thực thi công vụ; (2) Nhóm chuẩn mực áp dụng cho từng đối tượng cán bộ, công chức theo cấp bậc chức vụ, vị trí việc làm; (3) Nhóm chuẩn mực áp dụng cho từng ngành, lĩnh vực cụ thể gắn với vị trí việc làm. (4) Nhóm chuẩn mực chung được xây dựng và áp dụng trong toàn bộ hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức.

Theo đó, mỗi bộ, ngành, địa phương tùy theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm vị trí việc làm, nghề nghiệp khác nhau xây dựng những giá trị và chuẩn mực phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhóm chuẩn mực chung về VHCV trong hoạt động công vụ nên được thiết kế thành một chế định riêng trong Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức để thống nhất trong cách hiểu, biện pháp áp dụng và tổ chức thực hiện.

– Cần nghiên cứu quy định rõ hơn những hành vi vi phạm về VHCV. Cần phải bổ sung những hành vi vi phạm khác, như: vi phạm về xung đột lợi ích, vi phạm về đạo đức nghề nghiệp, VHCV… coi đây là những căn cứ quan trọng cho việc giám sát và xử lý vi phạm về VHCV. Có thể quy định bổ sung những dạng hành vi vi phạm này trong Luật Cán bộ, công chức hoặc Luật Phòng, chống tham nhũng.

– Quy định cụ thể việc hướng dẫn thực hiện các giá trị và chuẩn mực VHCV đã được xây dựng. Những vấn đề cần được pháp luật quy định cụ thể đó là: cơ quan chịu trách nhiệm hướng dẫn, nội dung hướng dẫn, các hình thức hướng dẫn, đối tượng được hướng dẫn… Những quy định này nên được thiết kế trong cùng một văn bản quy định chung về VHCV trong hoạt động công vụ là Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức hoặc Luật Phòng, chống tham nhũng.

– Bổ sung, hoàn thiện các quy định về giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về VHCV bao gồm các kênh giám sát nội bộ và giám sát từ bên ngoài. Đặc biệt, cần nghiên cứu mở rộng nội dung giám sát của xã hội đối với việc thực hiện các giá trị và chuẩn mực về VHCV; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định là công cụ cho việc kiểm tra, giám sát như: quy định về công khai, minh bạch, kê khai tài sản, trách nhiệm giải trình…

– Bổ sung quy định về chế tài xử lý hành chính tương ứng đối với các hành vi vi phạm về VHCV, bảo đảm sự công bằng đối với các cán bộ, công chức trong nền công vụ. Hiện tại, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức chỉ quy định chung các hình thức kỷ luật đối với CBCCVC mà chưa có những quy định mang tính chất định khung, ví dụ như nếu vi phạm quy định về những việc không được làm thì hình thức kỷ luật thấp nhất là cảnh cáo. Do đó, dễ tạo ra sự tùy tiện trong quá trình xử lý hành vi vi phạm; đồng thời chưa tạo được sức mạnh răn đe. Vì vậy, đối với những vi phạm về VHCV cần có quy định cụ thể hơn về hình thức xử lý kỷ luật.

– Sửa đổi, hoàn thiện các quy định về chế độ, chính sách cho CBCCVC; bảo đảm sự công bằng và phù hợp với mức sống xã hội; tiếp tục từng bước nâng dần mức lương dành cho CBCCVC; bảo đảm cho CBCCVC có thể sống được bằng lương của mình.

Thứ ba, cần tập trung nguồn lực trong việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về VHCV trong hoạt động công vụ. Đây là nội dung thực chất nhất để quyết định kết quả của những nỗ lực và quyết tâm thực hiện VHCV trong hoạt động công vụ. Hơn thế, khi các quy định không được triển khai thực hiện nghiêm túc đó là sẽ tạo ra thái độ coi thường pháp luật của các chủ thể có liên quan. Khi đã xảy ra điều đó thì việc thực hiện sẽ càng trở nên khó khăn hơn rất nhiều lần.

Thứ tư, cần đặc biệt chú ý bảo đảm yếu tố con người với tư cách là chủ thể trung tâm của VHCV trong hoạt động công vụ. Con người là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của bất cứ công việc gì. Với việc xây dựng và thực hiện VHCV trong hoạt động công vụ, yếu tố con người cho thấy vai trò quan trọng nhất không chỉ với tư cách là những người sẽ thực hiện các giá trị, chuẩn mực pháp lý và đạo đức về VHCV mà còn với tư cách là những người sẽ hướng dẫn, giám sát và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện.

Thứ năm, tiếp tục nâng cao chất lượng môi trường công vụ, tạo ra nền tảng vững chắc cho việc xây dựng và thực hiện VHCV trong hoạt động công vụ. Môi trường công vụ, theo nghĩa rộng, bao gồm các yếu tố, như: thể chế kiểm soát quyền lực, phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn từng cơ quan trong bộ máy nhà nước, cơ chế giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước… Đây là những điều kiện căn bản để trên nền tảng đó, VHCV được xây dựng và thực hiện.

Chú thích:
1. Văn hoá chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 08/6/2010
2. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
3. Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 09/5/2016 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2016.
4. Thanh tra Chính phủ, (2016), Báo cáo của Chính phủ về tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng
TS. Cao Minh Công ThS. Nguyễn Thị Hiền
Đại học Kiểm sát Hà Nội