(Quanlynhanuoc.vn) – Đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng hành chính cho cán bộ, công chức, viên chức là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Vì vây, việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng hành chính cho cán bộ, công chức, viên chức là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Những vấn đề chung
Cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định, triển khai và tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước; quyết định sự thành công hay thất bại của đường lối, chính sách do cơ quan, tổ chức ban hành. Đội ngũ CBCCVC trực tiếp thực thi các chính sách, kế hoạch của cơ quan, tổ chức; các mục tiêu quốc gia; thực hiện các giao tiếp (trao đổi, tiếp nhận thông tin,…) giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc với doanh nghiệp và người dân.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ, công chức (CBCC). Người thường căn dặn người lãnh đạo muốn biết mình, tốt nhất là phải có thái độ và cách làm việc thật sự dân chủ, để mọi người xung quanh mạnh dạn, thẳng thắn nói những ưu, khuyết điểm của mình. Người lãnh đạo thật sự dân chủ, ý kiến của cán bộ được thật sự tôn trọng thì khối đoàn kết nội bộ được củng cố, những sáng kiến được nảy nở, công việc nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp.
Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo. Càng dân chủ thì càng có nhiều sáng kiến. Sáng kiến chỉ ra đời khi người đó tâm huyết, hăng hái làm việc trong một môi trường dân chủ”1. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”2. Người cho rằng huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác cán bộ và nhất là việc ĐTBD CBCCVC. Để triển khai thực hiện nội dung này, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành: Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐTBD công chức; Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Chính phủ phê duyệt Đề án ĐTBD CBCCVC giai đoạn 2016 – 2020; Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về ĐTBD CBCCVC…
CBCCVC trong giai đoạn hiện nay không những cần nắm rõ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có khả năng vận dụng các lý luận đó vào thực tiễn một cách linh hoạt, hiệu quả. Tùy theo từng cách tiếp cận khác nhau mà KNHC được cụ thể thành nhiều kỹ năng khác nhau. Đó là khả năng vận dụng kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực hành chính để có thể điều hành hiệu quả cơ quan, tổ chức; hay khả năng chuyên biệt của cá nhân về lĩnh vực hành chính được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc phát sinh trong lĩnh vực hành chính…Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính hiện nay, vấn đề ĐTBD kỹ năng hành chính (KNHC) cho CBCCVC trong giai đoạn hiện nay cần phải có những thay đổi đột phá, góp phần xây dựng đội ngũ CBCCVC “vừa hồng vừa chuyên” thích ứng yêu cầu công nghiệp 4.0.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, CBCCVC nhất thiết phải có những kỹ năng cơ bản như: thu thập và xử lý thông tin; tổ chức lao động; lập kế hoạch, tổ chức hội họp; phân tích công việc; soạn thảo văn bản; tiếp khách, tiếp công dân; ứng dụng công nghệ thông tin; quản lý, điều hành…
Công tác đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng hành chính cho cán bộ, công chức, viên chức hiện nay
Những thuận lợi
Trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật về ĐTBD CBCCVC đã ban hành, Chính phủ và Bộ Nội vụ đã tăng cường phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương trong quản lý, tổ chức thực hiện công tác ĐTBD để bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng CBCCVC. Qua đó, đã giúp tiết kiệm ngân sách nhà nước và chi phí xã hội, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ĐTBD đội ngũ CBCCVC.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực, chủ động xây dựng hệ thống văn bản quy định về ĐTBD CBCCVC của bộ, ngành, địa phương, như: quy chế ĐTBD CBCCVC; kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng; quy chế quy định trách nhiệm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp tham gia giảng dạy… Các văn bản này có tác dụng nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với công tác ĐTBD CBCCVC; tạo điều kiện khuyến khích CBCCVC học và tự học nhằm không ngừng nâng cao năng lực làm việc, năng lực thực thi nhiệm vụ, công vụ.
Đội ngũ giảng viên được bồi dưỡng, cập nhật về tình hình chính trị trong nước và thế giới, về xu hướng chính trị, hành chính, các phương pháp giảng dạy mới, kỹ năng truyền đạt… góp phần nâng cao năng lực sư phạm, nâng cao chất lượng ĐTBD. Các chương trình, tài liệu bồi dưỡng được tiến hành biên soạn cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng theo nhu cầu công việc. Chất lượng bồi dưỡng được thực hiện theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, Thông tư số 10/2017/TT-BNV ngày 29/12/2017 của Bộ Nội vụ quy định về đánh giá chất lượng bồi dưỡng CBCCVC.
Kết quả đào tạo, bồi dưỡng
Đối với CBCC ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện: hằng năm có khoảng 87% CBCC được cập nhật kiến thức pháp luật; 85% được bồi dưỡng về đạo đức công vụ; 75% được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực thi công vụ3.
Đối với CBCC cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã: hằng năm có khoảng 68% CBCC cấp xã được bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp, đạo đức công vụ; khoảng 97% người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được bồi dưỡng cập nhật và nâng cao kỹ năng, phương pháp hoạt động công vụ ít nhất 01 lần4.
Đối với viên chức: hằng năm có khoảng 40% số viên chức được bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp; hơn 50% viên chức được bồi dưỡng về đạo đức nghề nghiệp; cập nhật nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp chuyên ngành5.
Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp: có khoảng 98% đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021 được bồi dưỡng kiến thức pháp luật; kiến thức, kỹ năng và phương pháp hoạt động6.
Kết quả bồi dưỡng ở nước ngoài: từ năm 2016 – 2018, cả nước đã cử đi ĐTBD ở nước ngoài hơn 39.000 lượt CBCCVC. Trong đó, đối tượng CBCC lãnh đạo, quản lý là khoảng 17.000 lượt người (45%); công chức làm công tác tham mưu, hoạch định chính sách là hơn 7.200 lượt người (19%); số lượt giảng viên của các cơ sở ĐTBD được cử đi ĐTBD ở nước ngoài là khoảng 6.000 lượt người (16%)7.
Những hạn chế
Mặc dù đạt được nhiều kết quả, tuy nhiên công tác ĐTBD CBCCVC vẫn còn một số hạn chế. Công tác ĐTBD CBCCVC ở Việt Nam hiện nay chủ yếu chú trọng đến đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ mà ít quan tâm đến đào tạo KNHC cho công chức, viên chức trong thực thi công vụ. Đối tượng được ĐTBD KNHC chủ yếu dành cho công chức, viên chức thuộc diện quy hoạch lãnh đạo. Đây có thể nói là một thiếu sót bởi công chức, viên chức bình thường cũng chính là những nhân viên đại diện cho cơ quan, tổ chức thực thi nhiệm vụ được giaochịu trách nhiệm theo từng vị trí việc làm nhất định. Công chức, viên chức nói chung một khi thiếu và yếu kỹ năng giao tiếp hành chính sẽ làm giảm hiệu quả công việc, mất lòng tin của Nhân dân, ảnh hướng đên uy tín của cơ quan, tổ chức.
Đơn cử như: tối ngày 27/3/2020, trên mạng xã hội chia sẻ một văn bản do Phó Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường TP. Hồ Chí Minh ký yêu cầu một số đơn vị báo cáo phương án hoạt động hỏa táng ứng phó với tình hình phòng chống dịch COVID-19. Công văn này có đoạn: “… đặc biệt với tình huống cần phải hỏa táng các bệnh nhân nặng nhiễm virut Covid-19 có thể tử vong”8. Văn bản có nội dung không rõ ràng, diễn đạt chưa thoát ý, đã gây hoang mang dư luận. Ngay sau đó, Sở Tài nguyên – Môi trường TP. Hồ Chí Minh đã phải thu hồi văn bản.
Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng hành chính cho cán bộ, công chức, viên chức trong giai đoạn hiện nay
Việc ĐTBD nói chung và bồi dưỡng KNHC cho CBCCVC nói riêng là cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới công tác ĐTBD CBCCVC không chỉ chú ý đến trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải đặc biệt chú trọng phát triển KNHC cho CBCCVC. Cụ thể:
Thứ nhất, đổi mới nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp và tài liệu giảng dạy cho phù hợp, theo yêu cầu của vị trí việc làm, trong đó chú trọng kỹ năng thực tiễn áp dụng cho từng đối tượng người học; cần có sự liên thông trong nội dung chương trình, giảm bớt những nội dung trùng lặp.
Thứ hai, xây dựng cơ chế, chính sách để tuyển chọn đội ngũ giảng dạy, báo cáo viên chất lượng cao; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy và học. Xây dựng đội ngũ giảng viên có kiến thức sâu, rộng, có nhiều kinh nghiệm trong thực tế; cung cấp cho người học những thông tin, kiến thức thiết thực. Chú trọng mời giảng viên thỉnh giảng là lãnh đạo các cơ quan, đơn vị công tác trong ngành, trong địa phương có kinh nghiệm thực tiễn để truyền đạt kiến thức, hướng dẫn kỹ năng theo từng vị trí việc làm.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới và áp dụng các phương pháp truyền đạt kiến thức theo từng đối tượng ĐTBD như: thuyết trình, làm việc theo nhóm, nghiên cứu tình huống, thảo luận, đóng vai… Hình thức ĐTBD kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, chia tổ nhóm thảo luận, làm bài tập tình huống; minh họa quy trình, thao tác thực thi nhiệm vụ bằng hình ảnh trình chiếu, hướng dẫn nghiệp vụ theo hình thức ứng dụng, thực hành, xử lý tình huống…
Thứ tư, việc phát triển KNHC cần được chú trọng ở tất cả CBCCVC trong những ngành nghề khác nhau để tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong môi trường công vụ. Như vậy, nội dung ĐTBD CBCCVC cần được tập trung vào các phương diện sau:
– Quan tâm ĐTBD cho đội ngũ CBCCVC những kiến thức về lãnh đạo, quản lý và những kiến thức kỹ năng phù hợp với công việc được giao. Đây là điều kiện quan trọng, mang tính quyết định đến khả năng phân tích, luận giải những vấn đề thực tiễn từ những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn của đơn vị, của lĩnh vực mà cá nhân đang được phân công phụ trách. Thông qua ĐTBD giúp CBCCVC có khả năng phân tích, xử lý các tình huống, hình thành phương pháp nhận thức khoa học và giải quyết các vấn đề nhanh, nhạy và đạt hiệu quả cao nhất.
– ĐTBD KNHC phải gắn với việc vị trí việc làm. Xác định rõ tính chất, nội dung, yêu cầu của công việc để xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với từng ngành, nghề khác nhau trong xã hội. Đổi mới nội dung, chương trình ĐTBD phải theo tiêu chuẩn nghiệp vụ công chức, viên chức và tập trung theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu; mỗi chức danh, mỗi vị trí việc làm được bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng phù hợp, thiết thực với công việc đang đảm nhận, các chương trình cụ thể như: kỹ năng dành cho công chức, viên chức lãnh đạo quản lý; nghiệp vụ cho công chức, viên chức làm công tác nhân sự, cải cách hành chính, văn thư lưu trữ, thực hành văn bản; ứng dụng công nghệ thông tin; xử lý tình huống…
– Thời gian đào tạo cần linh động phù hợp với từng vị trí việc làm. Bên cạnh những lớp dài hạn cho CBCC quản lý, nhân viên hành chính cần có những lớp ngắn hạn cho các ngành nghề khác, những người làm nhiệm vụ chuyên môn thuần túy để góp phần nâng cao đạo đức công vụ, thái độ phục vụ nhân dân cũng như kỹ năng xử lý tình huống trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà Nhà nước, Nhân dân giao phó.
ĐTBD KNHC cho CBCCVC là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của CBCCVC; hướng tới mục tiêu là tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Đổi mới, nâng cao chất lượng ĐTBD CBCCVC không chỉ góp phần xây dựng đội ngũ CBCCVC đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp mà còn có tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh. Bên cạnh việc ĐTBD qua trường lớp; việc đào tạo CBCCVC qua hoạt động thực tiễn cũng cần được quan tâm thực hiện liên tục trong quá trình sử dụng, quản lý nguồn nhân lực.
Chú thích:
1, 2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 1995, tr. 543, 506.
3, 4, 5, 6, 7. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam. https://tcnn.vn, ngày 14/02/2020.
8. Công văn số 2285/STNMT-CTR ngày 27/3/2020 của Sở Tài nguyên và Môi trường TP.Hồ Chí Minh về việc báo cáo phương án hoạt động hỏa táng ứng phó với tình hình phòng, chống dịch covid-19 tại đơn vị.
ThS. Vương Thị Liên
Học viện Hành chính Quốc gia