Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế từ việc cải thiện năng suất lao động  

(Quanlynhanuoc.vn) – Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã xác định nhiệm vụ tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Chính vì vậy, chúng ta cần tập trung chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, trong đó trọng tâm là cải thiện năng suất lao động để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.

 

Ảnh minh họa (Nguồn: internet).

Năng suất lao động (NSLĐ) là một trong những tiêu chí phản ánh rõ nhất về tăng trưởng kinh tế bền vững, về năng lực, mô hình và trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. NSLĐ phản ánh hiệu suất làm việc của lao động, được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chia cho số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân. Chỉ tiêu NSLĐ thường được phân bổ theo ngành kinh tế và loại hình kinh tế. Cùng với số lao động đang làm việc, nếu GDP càng lớn thì NSLĐ càng cao và ngược lại. Quy mô của GDP phụ thuộc vào các nhân tố sản xuất là lao động, vốn và công nghệ. Sự kết hợp của các nhân tố lao động, vốn và công nghệ có hiệu quả hay không tùy thuộc vào môi trường thể chế, mô hình tăng trưởng, cơ cấu của nền kinh tế và một số nhân tố khác.

Thực trạng về năng suất lao động ở Việt Nam

Từ năm 1986 đến nay, sau gần 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, nền kinh tế của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước

có thu nhập trung bình và hiện đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, NSLĐ của Việt Nam trong thời gian qua liên tục gia tăng, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế – xã hội của đất nước và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Bình quân giai đoạn 2016 – 2019, NSLĐ tăng gần 5,90%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,35%/năm của giai đoạn 2011 – 2015. Mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn còn thấp nhưng Việt Nam đã thu hẹp khoảng cách một cách tương đối so với các nước trong khu vực. Nếu năm 2011, NSLĐ của Xinh-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a lần lượt gấp 17,6 lần, 6,3 lần, 2,9 lần và 2,4 lần NSLĐ của Việt Nam thì đến năm 2018 khoảng cách này giảm xuống tương ứng còn 13,7 lần, 5,3 lần, 2,7 lần và 2,2 lần1.

Việc cải thiện NSLĐ đã góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Năm 2019, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn 2016 – 2019 đạt 44,46%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011 – 20152.

Các lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế về quy mô và NSLĐ của khu vực này cũng cao nhất, đạt 131 triệu đồng/lao động, gấp 1,3 lần NSLĐ chung; NSLĐ bình quân của khu vực này giai đoạn 2011 – 2018 tăng 3%/năm. Đối với NSLĐ của khu vực dịch vụ đạt khoảng  118,1 triệu đồng/lao động, gấp gần 1,2 lần NSLĐ chung; tốc độ tăng NSLĐ bình quân giai đoạn 2011 – 2018 đạt 3,1%/năm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng NSLĐ bình quân cao nhất, đạt 5,2%/năm giai đoạn 2011 – 2018 nhưng hiện vẫn có mức NSLĐ thấp nhất trong các khu vực kinh tế, mới đạt 39,8 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 38,9% NSLĐ của toàn nền kinh tế. Mức NSLĐ thấp nhất nhưng khu vực này lại chiếm tới 40% lực lượng lao động đang làm việc nên tác động không nhỏ tới NSLĐ chung của nền kinh tế3.

Bên cạnh những kết quả đạt được, sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, dẫn đến NSLĐ còn khá khiêm tốn so với khu vực và thế giới. Nguyên nhân là do các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến NSLĐ, quy mô nền kinh tế còn nhỏ; quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực nhưng còn chậm, chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động còn thấp, ý thức chấp hành kỷ luật lao động không cao. Lao động thiếu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ hạn chế, thiếu hụt nhân lực là kỹ sư thực hành, công nhân kỹ thuật bậc cao (hiện mới chỉ bảo đảm nhận được các công việc gia công, không tạo ra sản phẩm có thương hiệu để cung ứng cho thị trường). Năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp (DN) còn hạn chế, còn một số “điểm nghẽn” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính; máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu; khu vực DN chưa thực sự là động lực quyết định tăng trưởng NSLĐ của nền kinh tế, chưa tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu… Những hạn chế này chính là rào cản lớn cho việc cải thiện NSLĐ.

Một số giải pháp cải thiện năng suất lao động nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam

Nghị quyết số 05/NQ-TW xác định cải thiện và nâng cao NSLĐ là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó Nghị quyết đề ra mục tiêu tốc độ tăng NSLĐ bình quân hằng năm cao hơn 5,5%. Để thực hiện mục tiêu của Nghị quyết đề ra, với vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế, Chính phủ đã đưa ra những giải pháp có ý nghĩa quyết định trong việc cải thiện và nâng cao NSLĐ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.

Xác định rõ định hướng chung: (1) Đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực có giá trị gia tăng thấp sang khu vực có giá trị gia tăng cao; (2) Thúc đẩy chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ lao động giản đơn sang lao động có kỹ năng. Trong nội bộ từng khu vực công nghiệp, dịch vụ cũng như nông nghiệp, chuyển dịch từ các ngành tạo ra giá trị gia tăng thấp sang các ngành tạo ra giá trị gia tăng cao; (3) Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế.

Theo định hướng trên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt hiện nay, để tránh nguy cơ tụt hậu và vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, tập trung chỉ đạo, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các định hướng lớn về cải cách để thúc đẩy tăng NSLĐ của Việt Nam, như: tổ chức mạng lưới và nâng cao năng lực quản trị nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và cải thiện môi trường kinh doanh. Đồng thời, tiếp tục cải thiện thể chế quản lý vĩ mô, điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô linh hoạt, chủ động, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch kinh tế, chuyển dịch lao động từ khu vực có giá trị gia tăng thấp sang khu vực có giá trị gia tăng cao hơn.

Bên cạnh việc huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực nói chung và nguồn nhân lực nói riêng, cần tăng cường phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô; phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các bộ, ngành, chính quyền địa phương cần đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho DN phát triển, nâng cao NSLĐ. Đối với một số lĩnh vực, có thể cho phép áp dụng các mô hình thử nghiệm thể chế, chính sách với thời gian, phạm vi cụ thể.

Cần rà soát, loại bỏ các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính không cần thiết nhằm tiết giảm chi phí cho DN. Với việc cải thiện môi trường kinh doanh thông qua cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính về đầu tư, kinh doanh, thương mại, cần thường xuyên đối thoại với cộng đồng DN, đặc biệt là các DN tư nhân, qua đó kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc cũng như những kiến nghị hợp lý của các DN.

Thứ hai, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, bảo đảm chất lượng và nâng cao hiệu quả trong đào tạo, phát triển năng lực, đáp ứng yêu cầu thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.

Tăng cường phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo, thực hiện tự chủ các trường đại học, cao đẳng công lập. Tăng cường kiểm soát chất lượng đầu ra của các cơ sở giáo dục đại học; công khai thông tin về các điều kiện bảo đảm chất lượng của nhà trường; đẩy mạnh công tác kiểm định chất lượng giáo dục, trên cơ sở đó thực hiện phân tầng, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học.

Trên cơ sở rà soát, sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu của thị trường lao động trong cả nước, từng vùng và địa phương, triển khai xây dựng cơ chế, chính sách phân luồng giáo dục, gắn với đào tạo nghề và phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông. Quy định về liên thông giữa các trình độ của giáo dục nghề nghiệp với giáo dục đại học, bảo đảm chất lượng và nâng cao hiệu quả trong đào tạo, từ đó tạo cơ hội học tập, phát triển năng lực cho người học.

Tiếp tục chương trình, phương pháp đào tạo, đánh giá giáo dục nghề nghiệp, gắn đào tạo với DN, đơn vị sử dụng lao động và việc làm bền vững; đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại người lao động và đào tạo lao động kỹ thuật chất lượng cao đủ năng lực tham gia nền sản xuất thông minh, kinh doanh dựa trên công nghệ hiện đại, đồng thời, khuyến khích các DN nâng cao năng suất thông qua việc nâng cao trình độ quản trị, chuyển đổi số, chuyển đổi mô hình kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cấp trong chuỗi giá trị cung ứng sản phẩm.

Bên cạnh đó, cần tăng cường sự hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo; áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình xây dựng, đổi mới chương trình và tổ chức đào tạo, nghiên cứu khoa học; khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp tiếp nhận chuyển giao chương trình đào tạo tiên tiến của các nước.

Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm nâng cao năng lực công nghệ trong sử dụng các công nghệ tiên tiến của các nước cho một số ngành, lĩnh vực ưu tiên.

Trong đó, tiếp tục đầu tư ngân sách cho nghiên cứu khoa học và ứng dụng để nâng cao năng lực công nghệ trong nước, trình độ thiết kế, chế tạo, ứng dụng kỹ thuật và công nghệ trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên. Xây dựng, thực hiện các chương trình xúc tiến, chuyển giao công nghệ từ các nước có công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực mà nước ta đang có nhu cầu để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nâng cao NSLĐ là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của DN, do đó, cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế khuyến khích DN triển khai các dự án đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển. Hỗ trợ DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa đầu tư đổi mới công nghệ; mở rộng hình thức tài trợ, cho vay, bảo lãnh vốn vay từ các quỹ nhà nước cho dự án đổi mới công nghệ của DN; hình thành thiết chế bảo lãnh vốn vay đối với các dự án nghiên cứu, đổi mới công nghệ để DN có thể vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Đầu tư phát triển và vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin công nghệ, chuyên gia công nghệ, trung gian công nghệ để hỗ trợ DN lựa chọn công nghệ cần đổi mới, chuyển giao.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đánh giá, định giá tài sản trí tuệ và góp vốn DN bằng tài sản trí tuệ. Thúc đẩy hình thành lực lượng DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng cao, có sản phẩm dịch vụ hướng tới xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Đồng thời, nâng cao trình độ cán bộ kỹ thuật, quản trị công nghệ và quản lý, quản trị DN. Xây dựng chính sách khuyến khích chuyển dịch lao động trình độ cao từ các viện nghiên cứu, trường đại học sang khu vực DN. Trong đó, thiết lập một cơ chế khuyến khích đủ mạnh để thu hút những người tài năng, các chuyên gia giỏi, các nhà quản lý xuất sắc, bao gồm người Việt Nam trong nước và các tài năng Việt Nam đang ở nước ngoài về làm việc tại Việt Nam.

Chú thích:
1, 2, 3.  Báo cáo của Tổng cục Thống kê tại Hội nghị Cải thiện năng suất lao động quốc gia do Văn phòng Chính phủ tổ chức ngày 07/8/2019.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
2. Năng suất lao động của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. http://tapchitaichinh.vn, ngày 02/01/2019.
3. Hội thảo khoa học quốc tế “Năng suất và đổi mới sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam: Phát hiện từ nghiên cứu thực chứng”, do Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Ailen tại Việt Nam tổ chức ngày 24/11/2017, tại Hà Nội. http://www.mpi.gov.vn, ngày 25/11/2017.
4. Công văn số 14/BKHCN-TĐC ngày 06/01/2020 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc Góp ý Dự thảo Chương trình quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn đến năm 2030.

PGS.TS. Nguyễn Văn Hậu – ThS. Trần Thị Lan Anh
Học viện Hành chính Quốc gia
Học viện Cảnh sát nhân dân