Tổ chức thực hiện truyền thông dấn số nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Cơ cấu giới tính khi sinh của dân số Việt Nam đã được xác định là mất cân bằng từ năm 2006 nhưng đến nay vẫn còn là vấn đề nan giải1, khó giải quyết và vẫn ở mức cao so với tỷ số giới tính khi sinh theo quy luật tự nhiên. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới cũng đã nhận định: “Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng”. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, trong đó giải pháp truyền thông, giáo dục, vận động là cơ bản.

 

Ảnh minh họa (nguồn: https://dangcongsan.vn).

Dân số vốn là một lĩnh vực xã hội nhạy cảm bởi có liên quan trực tiếp tới hành vi sinh sản của con người. Hành vi này không đơn thuần là hành vi sinh học mang tính bản năng mà nó chịu sự tác động, chi phối trực tiếp, gián tiếp của rất nhiều các yếu tố tự nhiên – kinh tế – văn hóa – xã hội, đặc biệt có liên quan và chịu tác động từ những giá trị xã hội truyền thống, các quan niệm, tư tưởng trong các cộng đồng dân cư khác nhau.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, sự mất cân bằng giới tính khi sinh (GTKS) ở Việt Nam và các nước châu Á có nguyên nhân sâu xa, gốc rễ từ sự ưa thích con trai, đề cao giá trị con trai trong gia đình, dòng tộc vốn đã ăn sâu trong tiềm thức, quan niệm của mỗi người dân. Hơn nữa, do bản chất của chính quá trình tái sản xuất dân số là quá trình có tính quán tính nên việc đạt mục tiêu của các chính sách dân số không thể nóng vội, nhất thời. Với đặc thù như vậy, cần có sự tác động dần dần vào nhận thức của mọi người dân thông qua các biện pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục để từ đó thay đổi nhận thức hướng tới thay đổi hành vi sinh sản một cách bền vững.

Do vậy, nhằm giảm thiểu mất cân bằng GTKS ở Việt Nam thì việc tổ chức thực hiện truyền thông, giáo dục, vận động và phổ biến pháp luật liên quan đến mất cân bằng cơ cấu GTKS luôn được coi là giải pháp cơ bản. Thực chất của nội dung này là Nhà nước thông qua tuyên truyền, giáo dục tác động vào nhận thức, tình cảm của con người nhằm nâng cao nhận thức, tính tự giác của họ trong việc thực hiện các hoạt động, hành vi sinh sản đúng đắn, không lựa chọn giới tính thai nhi, tránh làm mất cân bằng cơ cấu GTKS. Bằng nhiều kênh khác nhau, Nhà nước cung cấp hệ thống các văn bản chính sách, pháp luật và các kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất về cơ cấu GTKS, về bình đẳng giới (BĐG), về hậu quả của mất cân bằng GTKS cho người dân đểhọ nhận thức rõ, thay đổi thái độ, hành vi, hình thành các chuẩn mực mới về dân số – sức khỏe sinh sản, về vị thế của con trai, con gái trong xã hội.

Những yêu cầu đặt ra trong quá trình truyền thông, vận động thay đổi nhận thức, thực hiện hành vi sinh sản không chọn lựa giới tính

Trước hết, muốn đa dạng hóa trong tổ chức và triển khai các hoạt động truyền thông khác nhau nhằm mục tiêu giảm thiểu mất cân bằng GTKS, cơ quan tổ chức quản lý truyền thông cần quán triệt một số yêu cầu sau đây:

Thứ nhất, nội dung thông điệp truyền thông thực hiện mục tiêu cân bằng GTKS bao gồm: (1) Các quy định pháp luật của Nhà nước về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức và các hình thức xử lý vi phạm cũng như các trường hợp vi phạm đã bị xử lý để tăng tính răn đe, tăng cường tính tuân thủ pháp luật; (2) Tình trạng, xu hướng biến động cơ cấu GTKS thông qua sự thay đổi của tỷ số GTKS theo thời gian, vùng miền; (3) Hậu quả và hệ lụy xã hội của tình trạng mất cân bằng GTKS đối với sự phát triển của cá nhân, gia đình và xã hội.

Thứ hai, nguồn truyền thông sẽ rất đa dạng xuất phát từ bản chất của vấn đề có tính liên ngành, do vậy đòi hỏi sự tham gia và phát huy thế mạnh chức năng của rất nhiều cơ quan, tổ chức, ban, ngành, đoàn thể, kể cả các tổ chức phi chính phủ trong các hoạt động truyền thông giảm thiểu mất cân bằng GTKS. Nhiệm vụ đặt ra cho cơ quan quản lý nhà nước về dân số là cần có cơ chế phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức này trong triển khai các hoạt động truyền thông tạo hiệu ứng mạnh mẽ đến toàn cộng đồng xã hội.

Thứ ba, hình thức truyền thông hết sức đa dạng dựa trên các kênh truyền thông cơ bản là:(1) Truyền thông trực tiếp, bao gồm các hội nghị, hội thảo, họp, giảng dạy, nói chuyện, đối thoại, tư vấn trực tiếp, vận động trực tiếp,…; (2)Truyền thông đại chúngvốn đa dạng, hiện đại và thuận tiện như sách, các ấn phẩm khoa học, báo, đài, truyền hình, internet,…; (3) Truyền thông dân gian thông qua các hoạt động sinh hoạt văn nghệ truyền thống. Đồng thời, cần lưu ý đến các hướng tiếp cận trong truyền thông để tăng sức mạnh của truyền thông và đạt hiệu quả cao nhất, đó là truyền thông vận động, truyền thông huy động cộng đồng và truyền thông thay đổi hành vi2.

Trong nhóm truyền thông trực tiếp thì việc lồng ghép các kiến thức dân số và phát triển nói chung, kiến thức về cơ cấu giới tính nói riêng trong các chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng để chuyển tải tới người học được coi là phương thức truyền thông tốt nhất, ít tốn kém và hiệu quả trực tiếp nhất.

Thứ tư, đối tượng tiếp nhận thông điệp cũng đa dạng và phong phú. Cần phân loại đối tượng để xác định hướng tiếp cận, triển khai các hoạt động truyền thông cho phù hợp. Có thể có các nhóm đối tượng trực tiếp (những cặp vợ chồng trong tuổi sinh đẻ; thanh niên, học sinh, sinh viên trong các nhà trường, nhất là năm cuối…) và các nhóm đối tượng gián tiếp mà họ có ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi sinh sản của các cặp vợ chồng (ông bà,cha mẹ, dòng họ, bạn bè, dư luận xã hội, đặc biệt là các chủ thể lãnh đạo, quản lý các cấp, các chức sắc tôn giáo, già làng, trưởng bản,…).

Ngoài ra, cần tổng kết, đánh giá hiệu quả truyền thông với các kết quả đầu ra là số lượng các hoạt động đã triển khai và hiệu ứng của kết quả truyền thông hay mục tiêu đạt được cuối cùng là thái độ và hành vi ứng xử của xã hội sau khi đã lĩnh hội và hiểu biết được các thông điệp mà cụ thể là hạn chế được hành vi sinh sản lựa chọn giới tính trong xã hội.

Định hướng tổ chức triển khai các hoạt động truyền thông, giáo dục và vận động thay đổi hành vi không lựa chọn giới tính thai nhi 

Một là, xây dựng cơ chế và tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội triển khai các hoạt động truyền thông, vận động thay đổi nhận thức, thực hiện BĐG, hành vi sinh sản không lựa chọn giới tính. Đặc biệt, ngoài các đối tác truyền thống, cơ quan quản lý nhà nước về dân số – kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) cần chủ động phối hợp với một số tổ chức phi chính phủ triển khai các hoạt động truyền thông theo hướng tiếp cận huy động cộng đồng nhằm tạo ra dư luận xã hội có lợi, thu hút sự tham gia và đóng góp của cộng đồng trong thực hiện các hoạt động nhằm giảm thiểu mất cân bằng cơ cấu GTKS.

Hai là, định hướng phân loại đối tượng, phân vùng để triển khai hoạt động truyền thông phù hợp.

Đối với các nhà quản lý, lãnh đạo, những người có uy tín trong cộng đồng (cha xứ, già làng, trưởng bản,…) cần thườngxuyên cập nhật, cung cấp thông tin có chất lượng về thực trạng cơ cấu GTKS, các nguyên nhân, hậu quảcủa mất cân bằng GTKS để họ nhận thức, hiểu rõ và có sự ủng hộ, cam kết mạnh mẽ về chính sách, nguồn lực và dư luận xã hội thuận lợi cho triển khai các hoạt động giảm thiểu mất cân bằng GTKS.Chẳng hạn, đội ngũ cán bộ quản lý hành chính các cấp có vai trò rất lớn và mang tính chất tất yếu trong hoạch định và thực thi các chính sách giải quyết các vấn đề dân số trong mối quan hệ với phát triển kinh tế – xã hội.Về cơ bản, họ vừa là người tham gia hoạch định chính sách liên quan đến tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội (trong đó có cả chính sách dân số), vừa là người tổ chức thực hiện các chính sách đó.

Do vậy, việc triển khai hợp lý, có chất lượng các hoạt động truyền thông, vận động nhằm thay đổi nhận thức cho đối tượngnày về dân số và phát triển để từ đó họ có những can thiệp chính sách phù hợp. Rõ ràng, sẽ là hiệu quả nhất, phù hợp nhất khi thực hiện truyền thông, vận động thông qua thực hiện lồng ghép các kiến thức về dân số và phát triển nói chung, về cơ cấu GTKS nói riêng trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thường niên đối với các đối tượng này3.

Ngoài ra, cần thiết phân vùng theo tỷ số GTKS để có nội dung và hình thức truyền thông phù hợp. Tập trung mạnh mẽ hoạt động truyền thông vào vùng có tỷ số GTKS cao để tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành vi.

Ba là, chỉ đạo công tác phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai các chương trình truyền thông đặc thù để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cơ cấu GTKS cho nhóm đối tượng ở các vùng lao động sản xuất đặc thù (vùng biển, vùng công giáo, vùng dân tộc thiểu số, vùng dân tộc). Ví dụ, nhân rộng các mô hình “đồng bào công giáo/phật tử tham gia khắc phục tình trạng mất cân bằng GTKS” gắn với nêu gương các cá nhân, gia đình phật tử, giáo dân tiêu biểu. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo khi lồng ghép các chương trình dân số trong một số các hoạt động sinh hoạt đời sống của cư dân trên cơ sở tận dụng sự ảnh hưởng của các chức sắc tôn giáo tới giáo dân và phật tử sẽ có thể đem lại những thành công bất ngờ.

Bốn là, tăng cường chỉ đạo xây dựng, sản xuất và phân phối các tài liệu truyền thông đa dạng, sáng tạo, không khuôn cứng với nội dung về mất cân bằng GTKS nhằm tác động rộng rãi tới ý thức của cộng đồng một cách tự nhiên, góp phần loại bỏ dần sức ép của dư luận xã hội với việc sinh con trai, con gái. Trên thực tế, đã có rất nhiều các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế với các hoạt động truyền thông đặc biệt nhằm chung tay giảm thiểu bất BĐG bằng các dự án triển lãm tranh, ảnh, hoạt động thể thao, ca hát…có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới cộng đồng. Ví dụ, cuộc triển lãm tranh, ảnh với chủ đề “Chuyện của đàn ông về con trai”4 đã thực sự tạo ấn tượng mạnh và gợi nhiều suy nghĩ cho công chúng về nỗi niềm khao khát con trai với các hệ lụy xã hội trong tương lai.

Một số hoạt động truyền thông cụ thể cần tăng cường triển khai thường xuyên nhằm giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam

Thứ nhất, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giới, BĐG trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trực tiếp.

Nguyên nhân sâu xa của hiện trạng mất cân bằng trong cơ cấu GTKS là sự phân biệt đối xử trên cơ sở định kiến giới gắn liền với sự ưa thích con trai. Việc can thiệp chọn lọc giới tính tự nhiên đã biểu hiện tột cùng sự phân biệt đối xử với phụ nữ – là biểu hiện của sự mất BĐG nghiêm trọng. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên tham gia kí công ước CEDAW, đã ban hành và triển khai Luật BĐG, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và trên thực tế cũng đã có những thành công nhất định nhưng nhận thức và hành vi BĐG chưa thực sự thay đổi, sự phân biệt đối xử nam nữ vẫn hiện hữu trong mọi mặt cuộc sống, sinh hoạt trong xã hội.

Để thực hiện BĐG nhằm kiểm soát mất cân bằng GTKS, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và phối hợp tổ chức thực hiện của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, ngành Y tế các cấp trong công tác tuyên truyền, thực hiện chính sách, pháp luật về BĐG và kiểm soát mất cân bằng GTKS. Đồng thời, nâng cao nhận thức, thái độ và thực hành của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng về các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về BĐG, về kiểm soát tình trạng mất cân bằng GTKS.

Bên cạnh đó, tổ chức các chiến dịch truyền thông về sự bình đẳng trong thừa kế tài sản, trong việc con mang họ bố hay mẹ mà luật pháp Việt Nam đã quy định; truyền thông để thay đổi hành vi qua việc nhấn mạnh vai trò của con gái cũng đảm nhận được việc thờ cúng tổ tiên, chăm sóc phần mộ; họ thành đạt và có thu nhập cao, có khả năng phụng dưỡng cha mẹ; truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với vấn đề áp lực từ dư luận xã hội (đả kích người không sinh con trai) là hành vi thiếu đạo đức, gây bất lợi cho sự phát triển cộng đồng.

Thông qua đó nâng cao vị thế, giá trị của phụ nữ, trẻ em gái trong gia đình, ngoài xã hội. Để thực hiện các nội dung truyền thông này một cách có hiệu quả nên thực hiện thông qua các chiến dịch truyền thông tại cộng đồng dân cư, trường học và bằng các hình thức dễ thu hút sự tham gia như sân khấu hóa, triển lãm tranh, ảnh, chiếu video nêu gương điển hình thông qua các câu chuyện có thật về các tài năng nữ học sinh, tấm gương phụ nữ thành đạt, hiếu thảo… Đây chính là cách thức hữu hiệu để loại bỏ dần các quan niệm chuẩn mực xã hội gây bất BĐG ở Việt Nam.

Thứ hai,tăng cườngmạnh mẽ hơn nữa truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi các đối tượng có liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn giới tính.

Triển khai mạnh và đồng bộ các hoạt động truyền thông đại chúng và truyền thông trực tiếp về lựa chọn giới tính tự nhiên, giới và BĐG, đặc biệt là giới và BĐG trong đời sống gia đình với cách tiếp cận và thông điệp phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của các cặp vợ chồng, những người có uy tín trong cộng đồng, người đứng đầu dòng họ và gia đình, nam nữ thanh niên chuẩn bị kết hôn và những người cung cấp dịch vụ có liên quan.

Các hoạt động chủ yếu gồm: xây dựng bộ thông điệp truyền thông về mất cân bằng GTKS, BĐG trong đời sống gia đình làm cơ sở cho toàn bộ các hoạt động xây dựng;phát triển tài liệu truyền thông và tổ chức các hoạt động truyền thông trực tiếp và truyền thông đại chúng ở các cấp; xây dựng bộ thông điệp phát sóng trên các đài truyền hình, đài phát thanh, báo viết, báo điện tử; phát triển các tài liệu truyền thông; tổ chức các cuộc nói chuyện chuyên đề về mất cân bằng cơ cấu GTKS và phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về nghiêm cấm tuyên truyền, phổ biến, chẩn đoán, lựa chọn giới tính tự nhiên.Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả tuyên truyền vận động trực tiếp về mất cân bằng GTKS đến các đối tượng tại cộng đồng, địa bàn cư trú thông qua mạng lưới cộng tác viên dân số, nhân viên y tế thôn bản và tuyên truyền viên của các ngành đoàn thể ở cơ sở.

Tổ chức tuyên truyền, tư vấn trực tiếp cho nam, nữ thanh niên chuẩn bị kết hôn, người cung cấp dịch vụ liên quan đến lựa chọn giới tính tự nhiên.Xây dựng các cụm pa-nô, áp phích tuyên truyền tại cấp thôn xã, nơi tập trung dân cư, cơ sở cung cấp dịch vụ có liên quan đến lựa chọn giới tính tự nhiên.Sản xuất và phát sóng, đăng tải các chương trình về nghiêm cấm lựa chọn giới tính tự nhiên, hệ lụy của mất cân bằng GTKS đối với gia đình và xã hội, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa con trai và con gái, các chính sách hỗ trợ cho trẻ em gái và các gia đình sinh con một bề gái, khuyến khích động viên không lựa chọn giới tính tự nhiên… trên các phương tiện thông tin đại chúng.Tổ chức thi, đặt hàng sáng tác các tác phẩm văn hóa nghệ thuật (ca nhạc, thơ, văn, kịch…) về chủ đề BĐG, lựa chọn các tác phẩm có chất lượng tốt để sản xuất, phổ biến; lồng ghép các nội dung về mất cân bằng GTKS vào các hoạt động xã hội khác.

Thứ ba, triển khai giáo dục trong, ngoài nhà trường và gia đình về giới và BĐG.

Thực hiện giáo dục thường xuyên cho học sinh, sinh viên, học viên về giới, BĐG là cung cấp cho họ những kiến thức nền tảng về giới, sự khác biệt giới cũng như những hành xử đúng đắn trên cơ sở hiểu biết về sự bình đẳng đối với vị thế, vai trò của cả nam và nữ. Trên cơ sở đó, dần xây dựng các chuẩn mực giá trị xã hội mới tiên tiến trong một số khía cạnh của đời sống xã hội, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy BĐG, loại trừ dần nguyên nhân sâu xa của hiện tượng lựa chọn giới tính tự nhiên.

Lồng ghép để cung cấp kiến thức và kỹ năng cơ bản về giới, BĐG trong đời sống gia đình, tình trạng và hệ lụy của mất cân bằng GTKS vào chương trình học chính khóa của các môn sinh học và giáo dục công dân dành cho học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông, hệ thống các trường y. Đồng thời, tổ chức các hoạt động ngoại khóa phù hợp nhằm tăng cường thời lượng giáo dục giới và BĐG; tiến hành tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về giới và BĐG cho các nhà quản lý giáo dục, giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy của các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng. Đồng thời, biên soạntài liệu tuyên truyền về giới và BĐG phù hợp với lứa tuổi để cung cấp cho học sinh, sinh viên, học viên.

Tiếp tục duy trì thực hiện lồng ghép giảng dạy các kiến thức chung về dân số và phát triển trong hệ thống các trường Chính trị – Hành chính địa phương. Tuy nhiên, cần có sự cam kết xây dựng chương trình lồng ghép theo các chuyên đề và tùy vào tình trạng dân số ở các địa phương khác nhau mà ưu tiên chú trọng các chuyên đề mang tính thời sự ở địa phương đó, đồng thời, cần phải có đánh giá hiệu quả theo từng năm học để làm cơ sở cấp kinh phí.

Để thực hiện được sự lồng ghép trên, cần xây dựng cơ chế phối hợp thông qua hợp đồng trách nhiệm trong việc xây dựng các chuyên đề trọng điểm hoặc lồng ghép kiến thức về các vấn đề dân số mới hiện nay ở Việt Nam, trong đó có vấn đề mất cân bằng GTKS để thực hiện lồng ghép trong giảng dạy, bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế – xã hội khác tại hệ thống Học viện Hành chính Quốc gia và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, đặc biệt đối với các lớp bồi dưỡng hệ cao cấp.

Thực chất của lồng ghép giảng dạy các chuyên đề về các vấn đề xã hội có tính thời sự như mất cân bằng GTKS trong các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn thường niên cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chính là hướng tiếp cận truyền thông vận động chính sách rất hiệu quả, đỡ tốn kém. Các nghiên cứu và thực tiễn cũng đã chỉ ra, vai trò ảnh hưởng của các đối tượng bồi dưỡng (cán bộ, công chức) rất lớn và có tính tất yếu bởi điều này nằm trong bản chất hoạt động của đội ngũ cán bộ quản lý ở chính quyền các cấp và mang tính chất quyền lực từ các hoạt động của họ. Họ vừa là người tham gia và hoạch định các đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước liên quan đến tất cả các vấn đề kinh tế – xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực dân số, đồng thời họ vừa là người tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách đó.

Vai trò của họ còn thể hiện cả ở việc theo dõi, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách để kịp thời có những biện pháp điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung thích hợp nhằm làm cho mục tiêu của các chủ trương chính sách đạt được. Cụ thể, hoạt động của họ gắn liền trực tiếp việc quản lý các hoạt động kinh tế – xã hội. Họ tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, cung cấp những điều kiện vật chất cho việc triển khai tốt trong thực tế các chính sách kinh tế – xã hội. Vai trò của họ là rất lớn khi họ đặt vấn đề dân số, vấn đề mất cân bằng GTKS trong một tổng thể chung của sự phát triển5. Khi bản thân các cán bộ lãnh đạo, quản lý này đã nhận thức thấu đáo vấn đề mất cân bằng GTKS, họ sẽ có các quyết định chính sách phù hợp6.

Từ kinh nghiệm của các trường chính phủ các quốc gia trên thế giới, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, tại các cơ sở bồi dưỡng cán bộ cao, trung cấp từ các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể ở Việt Nam, cần xây dựng các kế hoạch báo cáo chuyên đề đối với các vấn đề kinh tế – xã hội nóng bỏng của xã hội (như vấn đề mất cân bằng GTKS) một cách thường niên để thông qua đó tạo cho các nhà quản lý, lãnh đạo luôn cập nhật và nhận thức được diễn biến của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, từ đó có những cân nhắc sáng suốt trong các quyết định ban hành, làm lợi cho quốc kế dân sinh.

Thực tế của Việt Nam cho thấy, trong sự thành công của giai đoạn giảm sinh ở Việt Nam 1993 – 2000, bài học thành công rút ra là cần có sự điều phối hiệu quả của Ủy ban Quốc gia Dân số -KHHGĐ với các bên liên quan, trong đó có sự hợp tác chặt chẽ, có hiệu quả với Học viện Hành chính Quốc gia để thực hiện lồng ghép kiến thức về dân số và phát triển trong chương trình giảng dạy cho các cán bộ quản lý, lãnh đạo cấp cao trong hệ thống chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương. Qua đó giúp họ hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa dân số và phát triển, đồng thời giúp họ nhận thức được cần lồng ghép các biến dân số trong quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Có thể coi đây chính là một dạng truyền thông vận động chính sách đỡ cồng kềnh và ít tốn kém nhưng mang lại hiệu quả trực tiếp to lớn.

Chú thích:
1. Theo kết quả Tổng Điều tra dân số và nhà ở 2019, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam là 111,5/100.
2. Bộ Y tế, Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình. Tài liệu tập huấn truyền thông về giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Hà Nội, tháng 9/2013.
3. Đó có thể là sự lồng ghép kiếp kiến thức dân số – phát triển vào các chuyên đề phù hợp hay xây dựng các chuyên đề báo cáo về dân số – phát triển hoặc tổ chức Hội thảo chuyên đề đối với các lớp thuộc các chương trình bồi dưỡng cho các chức danh lãnh đạo, quản lý.
4. Triển lãm được tổ chức tại Bảo tàng Dân tộc học diễn ra ngày 25/11/2014.
5. Ủy ban Quốc gia Dân số – Kế hoạch hóa gia đình và Viện Nghiên cứu Hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia. Đề tài “Đánh giá nhận thức và vai trò của đội ngũ hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình“. Hà Nội, tháng 8/1997.
6. Trên thực tế điều tra, khi hỏi học viên các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước là lãnh đạo, quản lý các cấp: “có cần thiết lồng ghép kiến thức về mất cân bằng giới tính khi sinh và quản lý nhà nước nhằm giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam trong các chương trình bồi dưỡng không?” đã nhận được tỷ lệ tuyệt đối với câu trả lời “cần thiết” và phần lớn các ý kiến cho rằng nên xây dựng thành một chuyên đề riêng hoặc lồng ghép vào chương trình đi thực tiễn tại các địa phương.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới.
2. Tổng cục Thống kê.Thông cáo báo chí Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019. http://tongdieutradanso.vn, ngày 19/12/2019.

TS. Tạ Thị Hương
Học viện Hành chính Quốc gia