Giải pháp nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh Quảng Ngãi

(Quanlynhanuoc.vn) – Theo kết quả công bố chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) ngày 05/5/2020 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), PCI năm 2019 của Quảng Ngãi xếp thứ hạng 41/63 tỉnh, thành phố, với tổng số điểm đạt được 64,33 điểm, tăng 1,93 điểm và vẫn giữ vị trí thứ 41 trên bảng xếp hạng so với năm 2018, thuộc nhóm xếp thứ hạng khá. Tuy nhiên, so với năng lực thực tế còn có thể nâng cao hơn nữa
Ảnh minh hoạ (nguồn: internet)
Bức tranh chỉ số PCI của tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua

Kết quả điều tra PCI 2019 cho thấy một bức tranh khá sáng sủa về môi trường kinh doanh của tỉnh Quảng Ngãi. Chất lượng điều hành kinh tế của các tỉnh, thành phố tại Việt Nam năm vừa qua tiếp tục duy trì đà cải thiện. Điểm PCI bình quân đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Tỉnh đứng đầu đã tăng điểm số, khoảng cách giữa tỉnh đứng cuối bảng xếp hạng với nhóm tỉnh đứng trên tiếp tục xu hướng thu hẹp. Chất lượng hạ tầng được cải thiện mạnh mẽ.

Chi phí không chính thức cho doanh nghiệp (DN) tiếp tục được cắt giảm, môi trường kinh doanh cho các DN tư nhân đang dần bình đẳng hơn, tình hình an ninh trật tự được bảo đảm hơn và thủ tục hành chính (TTHC) đang thay đổi theo hướng tích cực. Cùng với xu thế chung của cả nước, đối với tỉnh Quảng Ngãi các chỉ số như: gia nhập thị trường; tính minh bạch; cạnh tranh bình đẳng; thiết chế pháp lý và an ninh trật tự; tiếp cận đất đai; tính năng động của chính quyền tỉnh; đào tạo lao động đã có sự tăng điểm, tăng bậc, trong đó có 04 chỉ số tăng điểm và tăng bậc, 03 chỉ số tăng điểm nhưng giảm bậc và 03 chỉ số còn lại đều giảm điểm.

Chỉ số dịch vụ hỗ trợ DN giảm điểm nhưng tăng bậc và 02 chỉ số: chi phí thời gian; chi phí không chính thức đều giảm điểm, giảm bậc. Theo đó, PCI của tỉnh Quảng Ngãi năm 2019 đạt được 64,33 điểm, tăng 1,93 điểm và vẫn giữ vị trí thứ 41 trên bảng xếp hạng, thuộc nhóm xếp thứ hạng khá.

Giải pháp đối với các chỉ số tăng điểm và tăng bậc

Chỉ số gia nhập thị trường năm 2019 đạt 8,23 điểm, tăng 1,43 điểm và tăng 51 bậc so với năm 2018, xếp hạng 4/63 tỉnh, thành phố. Đây là chỉ số tăng điểm và tăng bậc tốt nhất trong 10 chỉ số thành phần của tỉnh Quảng Ngãi năm 2019.

Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục để tăng điểm số và giữ vững xếp hạng. Giải pháp là cần tăng cường hướng dẫn và hỗ trợ DN đăng ký kinh doanh qua phương thức mới (trực tuyến, bưu điện,…); bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ ứng xử cho cán bộ, công chức làm ở bộ phận đăng ký kinh doanh. Tiếp tục đổi mới, cải cách thủ tục, giảm thời gian đăng ký thành lập DN xuống dưới hai ngày làm việc. Đầu tư có chiều sâu cho công nghệ thông tin (CNTT), nâng cấp phần mềm quản lý hồ sơ DN.

Chỉ số tính minh bạch năm 2019 đạt 6,96 điểm, tăng 0,31 điểm và tăng 2 bậc so với năm 2018, xếp hạng 8/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này đã liên tục giảm điểm trong 2 năm (2017 – 2018), đến năm 2019 đã được cải thiện về điểm số và thứ hạng. Vì vậy, cần tiếp tục cải thiện để tăng điểm số và giữ vững xếp hạng. Theo đó, thực hiện công bố rộng rãi, đầy đủ và kịp thời thông tin về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, các huyện, thị xã, thành phố; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;… các cơ chế, chính sách của tỉnh; danh mục dự án kêu gọi đầu tư trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh và Cổng thông tin điện tử của các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố. Nhanh chóng, kịp thời cung cấp thông tin, văn bản khi có đề nghị của DN (trong khoảng thời gian từ hai đến ba ngày làm việc).

Đẩy mạnh xây dựng và phát triển chính quyền điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước (CQNN), phục vụ người dân và DN ngày càng tốt hơn. Công khai, minh bạch hoạt động của các CQNN trên môi trường mạng. 100% hồ sơ giải quyết TTHC được thực hiện thông qua Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh; triển khai Hệ thống thông tin một cửa điện tử dùng chung đến 100% cấp xã, phấn đấu trong năm 2021 đạt tối thiểu trên 60% hồ sơ giải quyết TTHC cấp huyện và cấp xã được quản lý trên môi trường mạng. Cung cấp hầu hết các TTHC sẵn sàng tiếp nhận hồ sơ trực tuyến mức độ 3, 4 (phấn đấu đạt tối thiểu 30% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong năm 2021), đặc biệt chú trọng TTHC các lĩnh vực: đăng ký kinh doanh, xây dựng, đất đai, đầu tư, tư pháp, bảo hiểm xã hội, kê khai và nộp thuế,… Phối hợp tích hợp các dịch vụ công trực tuyến của tỉnh lên Cổng dịch vụ công Quốc gia theo Đề án đã được Chính phủ phê duyệt và theo chỉ đạo triển khai thực hiện của Văn phòng Chính phủ, UBND tỉnh.

Chỉ số Cạnh tranh bình đẳng năm 2019 đạt 5,46 điểm, tăng 0,89 điểm và tăng 6 bậc so với năm 2018, xếp hạng 54/63 tỉnh, thành phố. Mặc dù chỉ số này tăng điểm, tăng bậc so với năm 2018 nhưngkết quả xếp hạng thấp nhất trong các chỉ số thành phần của tỉnh năm qua. Cần chú trọng tiếp tục cải thiện điểm số và nâng cao mạnh mẽ thứ hạng. Các cơ quan, đơn vị cần chú trọng thực hiện sự bình đẳng, công bằng giữa các DN trong tiếp cận và thụ hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, tiếp cận đất đai, tín dụng; bình đẳng trong giải quyết các vấn đề khó khăn cho DN trong nước và ngoài nước. Tăng cường hướng dẫn, phổ biến, giới thiệu các chính sách mới của tỉnh để mọi thành phần kinh tế được tiếp cận và thụ hưởng. Nâng cao vai trò của các hiệp hội DN để hỗ trợ cộng đồng DN trong việc tiếp cận các nguồn lực, thủ tục và chính sách của tỉnh.

Chỉ số thiết chế pháp lý và an ninh trật tự năm 2019 đạt 6,49 điểm, tăng 0,66 điểm và tăng 16 bậc so với năm 2018, xếp hạng 36/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này tăng bậc đáng kể. Do vậy, cần tiếp tục nỗ lực cải thiện hơn nữa để tăng điểm và tăng bậc. Giải pháp được tỉnh nêu ra là tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 22/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, DN trong giải quyết công việc. Cần sớm đăng tải danh sách mạng lưới tư vấn viên pháp luật thuộc các ngành, lĩnh vực để các DN tiếp cận và sử dụng. Bên cạnh đó, cần khẩn trương triển khai xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật dữ liệu về phán quyết của trọng tài thương mại và dữ liệu về văn bản trả lời của CQNN đối với vướng mắc pháp lý của DN nhỏ và vừa để các DN tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử của tòa án các cấp để bảo đảm việc giải quyết các vụ án kinh tế được nhanh chóng, đúng pháp luật, chính xác và công bằng. Tiếp tục duy trì và giữ ổn định tình hình an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh để hoạt động sản xuất, kinh doanh được ổn định và thuận lợi, không để xảy ra tình trạng trộm cắp tài sản và ‘bảo kê’ trong quá trình làm việc của các DN trên địa bàn tỉnh.

Hoàn thiện thể chế pháp luật liên quan đến bảo vệ người tố cáo, phát hiện những hành vi sách nhiễu, gây phiền hà, tham nhũng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong giải quyết công việc cho người dân, DN.

Giải pháp đối với các chỉ số tăng điểm nhưng giảm bậc

Chỉ số tiếp cận đất đai năm 2019 đạt 6,65 điểm, tăng 0,1 điểm và giảm 5 bậc so với năm 2018, xếp hạng 39/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này tăng điểm liên tục trong 3 năm qua, tuy nhiên vẫn còn xếp hạng dưới trung bình. Cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ điểm số và vị trí xếp hạng bằng phương thức thực hiện minh bạch hóa việc tiếp cận nguồn lực đất đai cho nhà đầu tư, DN. Bảo đảm cơ sở cho việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để nhà đầu tư, DN có thể khai thác, giám sát thuận tiện; tạo sự bình đẳng cho nhà đầu tư, DN tiếp cận đất đai để phục vụ sản xuất, kinh doanh.

Tiếp tục rà soát, cải cách TTHC trong lĩnh vực đất đai, đặc biệt là thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, hướng đến việc giảm thời gian đăng ký đất đai; giảm thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Đẩy nhanh công tác hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt bằng để triển khai thực hiện dự án đầu tư. Thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất phải thực hiện theo đúng chỉ đạo của UBND tỉnh tại Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 03/4/2018 về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước để hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách nhà nước tại tỉnh Quảng Ngãi. UBND các huyện, thị xã, thành phố có trách nhiệm phê duyệt phương án bồi thường và quyết định thu hồi đất theo đúng quy định, tập trung hỗ trợ các DN trong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Chỉ số tính năng động của chính quyền tỉnh năm 2019 đạt 5,9 điểm, tăng 0,57 điểm và giảm 1 bậc so với năm 2018, xếp hạng 50/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này tăng điểm liên tục trong 3 năm, nhưng lại giảm bậc liên tiếp trong 2 năm (2018 – 2019). Do đó, thủ trưởng các sở, ban ngành, đơn vị trực thuộc UBND tỉnh, chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 57/QĐ-UBND ngày 22/01/2020, Chỉ thị số 04/CT-UBND ngày 13/3/2020 của Chủ tịch UBND tỉnh. Đẩy mạnh công tác cải cách TTHC bằng các giải pháp cụ thể, cách làm mới mang lại hiệu quả thiết thực để nâng cao chất lượng phục vụ DN, người dân; rút ngắn thời gian phối hợp giải quyết hồ sơ của nhà đầu tư; công khai, minh bạch toàn bộ hoạt động tiếp nhận, giải quyết TTHC thông qua Bộ phận một cửa các cấp.

Các cơ quan, đơn vị, địa phương kịp thời tham mưu Ban Chỉ đạo xử lý, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và triển khai thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; kịp thời nắm bắt, tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của DN, nhà đầu tư qua tất cả các kênh thông tin; đồng thời, tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho DN, nhà đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; lắng nghe ý kiến đề xuất của nhà đầu tư để đồng hành hỗ trợ, thúc đẩy DN phát triển trên địa bàn tỉnh; thường xuyên đổi mới chương trình “Cà phê doanh nhân” và “Hỗ trợ khởi nghiệp” nhằm tạo sự gần gũi, thân thiện để DN và nhà đầu tư tiếp xúc, chia sẻ những kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau để phát triển, góp phần kết nối và tạo điều kiện cho các ý tưởng khởi nghiệp gặp gỡ, trao đổi chia sẻ, hỗ trợ giữa các DNkhởi nghiệp.

Tăng cường công tác thông tin truyền thông, thường xuyên cung cấp thông tin về những quyết tâm, nỗ lực với tinh thần cầu thị của tỉnh, của các sở, ngành, địa phương trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cấp sở, ngành, địa phương. Cổng thông tin điện tử của các sở, ngành phải cập nhật thường xuyên, kịp thời chức năng, nhiệm vụ, cập nhật văn bản, cơ chế chính sách, nâng cao tính tương tác để người dân, DN đều nắm bắt được. Hiệp hội DN tỉnh, Hội Doanh nhân trẻ tỉnh chủ động đề xuất các biện pháp tăng cường đối thoại thực chất với các cơ quan, các buổi đối thoại, tham vấn theo chủ đề, theo nhóm DN đặc thù.

Chỉ số đào tạo lao động năm 2019 đạt 6,24 điểm, tăng 0,03 điểm và giảm 8 bậc so với năm 2018, xếp hạng 48/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này xếp hạng dưới trung bình. Cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm; xây dựng giải pháp gắn kết giữa các trung tâm dịch vụ việc làm với DN và cơ sở đào tạo tại địa phương. Rà soát, quy hoạch mạng lưới dịch vụ việc làm, xây dựng hệ thống dịch vụ việc làm có hiệu quả, đáp ứng được công tác thu thập xử lý thông tin, kết nối cung – cầu lao động, tư vấn và dự báo thông tin thị trường lao động. Duy trì thường xuyên hoạt động sàn giao dịch việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả các phiên giao dịch này.

Xây dựng trang thông tin về giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh phổ thông; hình thành cơ sở dữ liệu về nghề nghiệp, thị trường lao động và thông tin, dữ liệu liên quan đến ngành, nghề. Tăng cường hợp tác, kết nối giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và DN, qua đó để các bên thấy quyền và lợi ích trong hợp tác đào tạo nhằm giúp DN có cơ hội để theo dõi và tuyển chọn được những học sinh, sinh viên có tay nghề.

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo chuẩn ở các cấp độ quốc gia, khu vực ASEAN và quốc tế. Tập trung đầu tư trang thiết bị theo ngành, nghề theo chuẩn, khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nghiên cứu và chế tạo thiết bị tự làm phục vụ dạy và học.

Giải pháp đối với các chỉ số giảm điểm nhưng tăng bậc

Chỉ số dịch vụ hỗ trợ DN đạt 6,17 điểm, giảm 0,07 điểm và tăng 14 bậc so với năm 2018, xếp hạng 32/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này 02 năm liên tiếp giảm điểm. Cần nâng cao hiệu quả công tác thông tin dự báo thị trường; công bố rộng rãi, hướng dẫn DN cách khai thác thông tin về DN đã đăng ký, mới thành lập để tạo điều kiện cho DN tìm kiếm đối tác kinh doanh cũng như thuận tiện trong các giao dịch thương mại. Xây dựng các chương trình hỗ trợ DN nhất là các DN nhỏ và vừa, DN mới thành lập, DN khởi nghiệp. Hỗ trợ DN về tư vấn pháp lý, thông tin thị trường, tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm, ứng dụng khoa học và công nghệ, xây dựng, quản lý và quảng bá thương hiệu, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, đào tạo lãnh đạo quản lý và người lao động. Tư vấn, hướng dẫn DN hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật, các cơ chế chính sách hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh đã ban hành. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại. Gắn kết hoạt động xúc tiến thương mại với hoạt động khuyến công để tạo hiệu quả cao hơn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. Hỗ trợ, thông tin cho các DN để tham dự các hội chợ trong và ngoài nước.

Khuyến khích các DN ứng dụng CNTT trong quản lý điều hành; ứng dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO; nghiên cứu, áp dụng thành tựu khoa học và công nghệ, các phương pháp quản lý tiên tiến nhằm giảm chi phí không chính thức, chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động, cải thiện năng lực cạnh tranh của DN. Tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn phổ biến kiến thức về hội nhập quốc tế, về chính sách liên quan hội nhập, cam kết hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do (FTA), Hiệp định đối tác toàn điện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cho các DN, đơn vị liên quan; nâng cao nhận thức của DN về các rào cản thương mại, để các DN nắm bắt cơ hội và vượt qua những thách thức trong giai đoạn hội nhập sâu rộng.

Giải pháp đối với những chỉ số giảm điểm và giảm bậc

Chỉ số Chi phí thời gian đạt 6,56 điểm, giảm 0,68 điểm và giảm 25 bậc so với năm 2018, xếp hạng 44/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này giảm điểm và giảm bậc đáng kể so với năm 2018. Cần chú trọng cải thiện mạnh mẽ điểm số và thứ hạng. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của DN; thực hiện tư vấn pháp lý cho DN. Hạn chế tối đa việc thanh tra, kiểm tra trùng lặp tại DN, tạo điều kiện để DN hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ đối với cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức giải quyết công việc liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích chính đáng, thiết thực của DN. Đồng thời tham mưu cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ, không hoàn thành nhiệm vụ.

Các sở, ban ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố: rà soát trình Chủ tịch UBND tỉnh công bố chuẩn hóa TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết và thường xuyên rà soát, đơn giản hóa, cập nhật để trình công bố chuẩn hóa, sửa đổi, bãi bỏ, thay thế, bổ sung TTHC đã được công bố và khi quy định pháp luật liên quan đến TTHC có sự thay đổi. Xây dựng, trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt quy trình nội bộ giải quyết TTHC thuộc thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã để kiểm soát việc thực hiện. Thực hiện niêm yết đầy đủ, kịp thời, công khai, minh bạch các TTHC, phí, lệ phí theo quy định. Định kỳ tổ chức đối thoại giữa lãnh đạo các ngành, các cấp với DN về TTHC, về tinh thần, thái độ phục vụ của công chức, CQNN.

Chỉ số Chi phí không chính thức đạt 5,93 điểm, giảm 0,11 điểm và giảm 10 bậc so với năm 2018, xếp hạng 42/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này giảm điểm, giảm bậc đáng kể và xếp hạng dưới trung bình. Cần rà soát quy trình, thủ tục và các khâu trong quá trình xử lý hồ sơ, dự án, các loại giấy tờ hành chính khác bảo đảm thuận lợi cho DN, nhà đầu tư. Niêm yết công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách, TTHC, nhất là TTHC liên quan đến đất đai, đầu tư xây dựng…, mức thu các loại phí tại trụ sở cơ quan hành chính, Trung tâm hành chính công, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, Cổng thông tin điện tử, Trang thông tin điện tử; xây dựng và công khai quy trình xử lý, giải quyết công việc hành chính, TTHC để DN biết, thực hiện và giám sát. Nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cơ chế một cửa theo hướng hiện đại. Tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và Trung tâm Phục vụ hành chính công thành phố Quảng Ngãi, thị xã Đức Phổ, huyện Sơn Hà.

Thực hiện nghiêm Quyết định số 20/2013/QĐ-UBND ngày 07/5/2013 của UBND tỉnh và Chỉ thị số 31-CT/TU ngày 13/6/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan, đơn vị và địa phương tùy tiện đặt ra các quy định trái pháp luật, sai thẩm quyền và những hành vi kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ, gây phiền hà, nhũng nhiễu đối với DN. Thực hiện hiệu quả các chương trình, kế hoạch phòng, chống tham nhũng.

Nhiệm vụ trọng tâm để cải thiện môi trường kinh doanh cấp tỉnh

Để cải thiện môi trường kinh doanh cấp tỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh, điều cần thiết là phải phát hiện những điểm còn hạn chế để tiếp tục cải cách việc điều hành môi trường kinh doanh của tỉnh, tạo môi trường thuận lợi cho DN hoạt động và phát triển. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, cần thực hiện một số nhiệm vụ như sau:

Một là, duy trì kết quả các chỉ số thành phần có sự cải thiện đột phá trong thời gian vừa qua, hiện đang trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước là các chỉ số: Gia nhập thị trường, Tính minh bạch.

Hai là, tiếp tục tập trung cải thiện các chỉ số thành phần: cạnh tranh bình đẳng, tiếp cận đất đai, tính năng động của chính quyền tỉnh, đào tạo lao động, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, chi phí thời gian, chi phí không chính thức, thiết chế pháp lý và an ninh trật tự là các chỉ số giảm điểm, giảm bậc hoặc xếp hạng dưới trung bình so với cả nước.

Ba là, tiếp tục cải cách hành chính theo hướng tăng cường ứng dụng CNTT, tăng tính minh bạch để giảm thời gian, giảm chi phí chính thức và không chính thức cho DN, nhà đầu tư, nhất là trong bối cảnh phục hồi kinh tế do tác động của dịch Covid-19.

Bốn là, chuẩn bị tốt các điều kiện để sẵn sàng đón thời cơ mới, làn sóng chuyển hướng đầu tư ra ngoài Trung Quốc, từ các quốc gia tham gia Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EV-FTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EV-IPA).

Năm là, chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các DN trong xu thế hội nhập.

Sáu là, tiếp tục triển khai các chính sách về phát triển DN. Thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; thực hiện hiệu quả các chính sách ưu đãi, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh. Hỗ trợ DN tiếp cận thông tin và khai thác, mở rộng thị trường. Đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu và thực hiện các chương trình hỗ trợ, phổ biến, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến tới các DN.

Bảy là, tăng cường phối hợp giữa các sở, ban ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị liên quan kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp. Thiết lập và thực hiện cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan, đơn vị trong tỉnh trong công tác quản lý, điều hành kinh tế.

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo kết quả Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh Quảng Ngãi năm 2019, giải pháp năm 2020 và những năm tiếp theo.
2. Kết quả công bố PCI năm 2019 ngày 05/5/2020 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam(VCCI).
ThS. Phạm Tấn Phước
Trường Chính trị tỉnh Quảng Ngãi