Đổi mới chương trình đào tạo của Học viện Hành chính Quốc gia về Chính phủ điện tử

(Quanlynhanuoc.vn) – Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (World Bank): “Chính phủ điện tử (CPĐT) là các cơ quan của Chính phủ sử dụng một cách có hệ thống các phương thức công nghệ thông tin – truyền thông mạng (CNTT-TT) để thực hiện quan hệ giao dịch với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ đó hiệu quả và chất lượng quản lý đa chiều được cải thiện, lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí toàn xã hội”.
Ảnh minh họa: daidoanket.vn.
Về Chính phủ điện tử trong quản lý nhà nước ở Việt Nam

Từ khi Internet trở thành một thực tế phổ biến trong thế giới mở (có thể xem mốc quan trọng là vào năm 1995, khi đó thế giới lấy hội nhập thay cho “chiến tranh lạnh”, đồng thời với sự ra đời của WTO) thì nhu cầu triển khai các hoạt động, phối hợp, tích hợp từ các nghiệp vụ nội bộ đến tương tác với các đối tượng bên ngoài của các cơ quan Chính phủ ngày càng thiết yếu, gia tăng, toàn diện. Quá trình đó thông qua môi trường thông tin – số hóa trên cơ sở các website và tương tác giữa chúng, từ vi mô đến vĩ mô và vượt ra ngoài các biên giới thời gian – không gian của các địa phương và của quốc gia.

Hiển nhiên với vai trò “kiến tạo xã hội” thì Chính phủ cần tiên phong xây dựng, ứng dụng, phát triển các phương thức, công cụ từ các nền tảng website – CNTT (kết nối mỗi cơ quan, nối mạng toàn hệ thống) để thực hiện chức năng thông tin quản lý nhà nước từ địa phương đến trung ương. Đương nhiên, điều đó dẫn đến thay đổi các tập quán, kỹ thuật quản trị mà từng cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) cần được đào tạo, bồi dưỡng để có trình độ, kỹ năng tiêu chuẩn trong các tác nghiệp thường xuyên.

Ý nghĩa chính yếu và mục tiêu xây dựng CPĐT – thực chất là quá trình xã hội hóa toàn diện công tác quản lý nhà nước (QLNN) trong tính tất yếu của tiến bộ CNTT, đó là: tốc độ hóa (phi thời gian – không gian) các thông tin QLNN, bảo đảm giảm thiểu tính “bất đối xứng thông tin” trong QLNN. Phục vụ xã hội bằng các dịch vụ một cách minh bạch, chuẩn tắc, đồng bộ, kịp thời thông qua môi trường thông tin website chính thống, kết nối. Thay đổi các hình thức quản lý hành chính kiểu cũ (quan liêu, trực tiếp, tốn kém) sang các hình thức kinh tế hóa mọi quy mô. Hội nhập từ địa phương đến nơi khác, từ quốc gia đến quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập về chủ trương và chính sách. Tích hợp và thúc đẩy quá trình số hóa rộng khắp mọi giao dịch dân sự – Nhà nước – quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, quản lý xã hội.

CPĐT là một xu hướng và yêu cầu của thực tế trong quá trình QLNN và do cách thâm nhập, sử dụng công cụ mới (trong môi trường thông tin – số hóa) sẽ ảnh hưởng – thậm chí làm thay đổi cơ bản – đến các hình thức cung cấp dịch vụ quản lý theo cách truyền thống.

Có 4 dạng thức chính về CPĐT:

– G2C (Government to Citizen): tương tác/dịch vụ Chính phủ cung cấp cho người dân. Giao dịch và cung cấp dịch vụ của Chính phủ trực tiếp cho các nhu cầu hành chính phổ thông cho người dân như các giấy tờ, thủ tục theo quy định cần phải có. Bảo đảm sự liên lạc tốt hơn giữa Chính phủ với công dân với chi phí thấp nhất có thể về thời gian và tiền bạc. Tạo cơ hội cải thiện hiệu quả chức năng và tính minh bạch của các cơ quan Chính phủ và mối quan hệ với công chúng tốt đẹp, nhanh chóng hơn.

– G2B (Government to Business): tương tác/dịch vụ Chính phủ cung cấp cho doanh nghiệp. Các dịch vụ khác nhau được trao đổi giữa Chính phủ và các tổ chức kinh doanh, bao gồm: chính sách, quy định và thể chế; tiếp cận các thủ tục trong quản lý. Làm tăng tính công bằng và minh bạch của các dự án, hợp đồng của Chính phủ; hỗ trợ việc phát triển kinh doanh bằng các “dữ liệu lớn” được Chính phủ xử lý cung cấp. Cũng như vậy, các doanh nghiệp có thể tham gia thầu chủ động và công bằng vào các dự án của Chính thông qua các website mở.

– G2E (Government to Employee): tương tác/dịch vụ điện tử cung cấp cho CBCCVC. Bao gồm các dịch vụ, giao dịch trong mối quan hệ giữa Chính phủ đối với CBCCVC: phổ biến các chủ trương chính sách quản lý. Cung cấp các thông tin về chế độ lương thưởng và lợi ích khác trong ngành đến cá nhân; tra cứu các hướng dẫn thực hiện. Cung cấp kiến ​​thức phổ thông và nâng cấp nghiệp vụ chuyên môn, các thông tin và dữ liệu chuyên biệt hoặc thống kê hỗ trợ tác nghiệp.

– G2G (Government to Government): tương tác/dịch vụ điện tử Chính phủ trao đổi nội bộ giữa các cơ quan thuộc Chính phủ. Phối hợp và tích hợp việc cung cấp các dịch vụ công đồng bộ, hiệu quả giữa các cấp, ngành, các cơ quan Chính phủ, đáp ứng các yêu cầu đa ngành trong quản lý. Giao dịch, phối hợp, chia sẻ tài nguyên và giải pháp quản lý giữa Chính phủ với các chính quyền địa phương, các tổ chức khác có liên quan. Cung cấp cách thức tương tác và tham khảo trực tuyến, phản ứng nhanh, thống nhất giữa các cơ quan chức năng trong Chính phủ.

Những điểm thiết yếu cần có trong hệ thống kỹ thuật của CPĐT cần góp phần để thông tin cập nhật, đầy đủ, truy cập nhanh dễ; các nguồn cung cấp không mâu thuẫn và trùng lặp về nội dung. Những thắc mắc hay phản hồi của đối tượng sử dụng được tương tác ngay và luôn không bị đứt đoạn. Tôn trọng và xử lý tốt những phản hồi về nội dung, sự quan tâm, ý kiến của các đối tượng sử dụng. Những thông tin cần được phân loại, thống kê và biên tập lại sau mỗi kỳ hạn, thành “dữ liệu lớn” giúp cho các đối tượng khác nhau. Các “đường dẫn” thông tin về các địa chỉ tin cậy, hiệu quả khi có các nhu cầu tiếp cận thông tin hệ thống, toàn diện chuyên sâu.

Kinh nghiệm của nhiều nước Châu Âu cho thấy, một số điểm chính yếu về CPĐT mà Việt Nam nên học tập như: phát triển một nền văn hóa về công nghệ thông tin và truyền thông. Phổ cập sử dụng công nghệ và phương tiện thông tin số cho xã hội, cải thiện, liên kết, tích hợp cơ sở hạ tầng CNTT rộng khắp. Sự tham gia đầu tư và khai thác lợi ích của các nhóm có liên quan. Cải thiện hình ảnh và thực tế: “thân thiện, phục vụ, liêm chính” của Chính phủ.

Thiết kế chương trình đào tạo trong kỷ nguyên Chính phủ điện tử

Hơn một thập kỷ qua, CNTT đã trở thành phương tiện trọng yếu để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động QLNN, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đến nay, đã trở thành xu thế tất yếu trong mọi mặt trong quá trình hội nhập (từ tổ chức vi mô đến vĩ mô). Cùng với đó yêu cầu cải cách hành chính càng làm vấn đề phổ cập các nghiệp vụ CPĐT trở nên cấp thiết.

Trên thực tế đa phần người dân Việt Nam trên 21 tuổi có điện thoại với những kỹ năng sử dụng thành thạo cho những tiếp cận, sử dụng thông thường, phổ cập. Bởi vậy, hiện thực hóa khẩu hiệu “Chính phủ kiến tạo” và “Nền hành chính khai phóng” thì với vai trò, chức năng của Học viện Hành chính Quốc gia cần xây dựng một chương trình “trọn gói” chuẩn về nội dung, phương pháp, năng lực, trình độ của giảng viên để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC đạt chuẩn theo nhiệm vụ, yêu cầu công việc đặt ra, đó là:

(1) Thúc đẩy và hiện thực quá trình cải cách hành chính nhà nước ở từng cơ quan; có kỹ năng tác nghiệp tiêu chuẩn và thực tế về các nghiệp vụ hành chính trực tuyến.

(2) Điều tra, khảo sát, đánh giá được cụ thể và tổng thể trình độ thực tế về CNTT của những đối tượng đã tốt nghiệp đại học, thi tuyển đầu vào của CBCCVC trong các cơ quan Nhà nước.

(3) Lập dự án kỹ thuật: tích hợp các mô hình đã có (website của các cơ quan – các App ứng dụng – các nhu cầu thông tin điển hình của các đối tượng sử dụng) thành một “Cửa sổ kỹ thuật” nhằm phục vụ đào tạo kỹ năng cho CBCCVC.

(4) Thiết kế giáo trình chuẩn, tập huấn giảng viên của Học viện sử dụng công cụ “Cửa sổ kỹ thuật” này cùng với việc thành lập hội đồng chuyên môn xác định chuẩn các kỹ thuật giảng dạy/tập huấn cho CBCCVC.

Thông qua quá trình đào tạo CBCCVC về CPĐT cùng với chức năng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, Học viện Hành chính Quốc gia sẽ góp phần hoàn thiện, tham vấn giúp cho các cơ quan Nhà nước xác lập mô hình thực hiện hiệu quả về CPĐT.

Nội dung của chương trình đào tạo cho CBCCVC không nên thiên về sử dụng công nghệ thông tin đơn thuần hay cách thức sử dụng máy tính, mà là các nghiệp vụ liên quan đến vận hành của CPĐT như:

– Thực hiện cải cách hành chính cho thấy nhu cầu, tiến độ và cập nhật tinh thần của Chính phủ trong việc thực hiện cơ chế “Một cửa” giảm các thủ tục phiền hà, tăng tốc các quá trình giải quyết các thủ tục hành chính cho các đối tượng QLNN.

– Tiếp cận khai thác Internet với danh mục địa chỉ, các kênh, đường dẫn thông tin và chuyên biệt về các lĩnh vực tri thức khác nhau nhằm bổ trợ nguồn tham khảo, chia sẻ mở rộng với website cơ quan Nhà nước.

– Chuyển đổi số giúp nắm bắt được quá trình, những nội dung Chính phủ đang và sẽ tiến hành số hóa các giao dịch hành chính và sự liên thông giữa các lĩnh vực giao dịch hành chính thông qua môi trường số hóa.

– Đô thị thông minh và các ứng dụng điện tử là những hình thái và sinh thái kỹ thuật tích hợp trong các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội được điện tử hóa, cùng với nhu cầu cần được QLNN như thế nào?

– Từ CNTT đến công tác hành chính làm hài hòa các giao dịch điện tử, sử dụng các App chức năng đến việc tiếp cận các dịch vụ hành chính công được cung cấp bởi các cơ quan QLNN.

– Thiết kế thủ tục trực tuyến phân tích các quy trình khác nhau theo thủ tục hành chính tất yếu và truyền thống cùng các thông tin liên quan để hoàn tất chúng, chuyển hóa thành các bước tiến hành online.

– Kỹ năng giao dịch mạng bao gồm cả cách thức thao tác, xử lý kỹ thuật qua mạng, kết hợp với cách thức giao tiếp của CBCCVC tương tác như thế nào với các vấn đề được trao đổi với đối tượng sử dụng.

– Thu thập xử lý các nguồn thông tin, cách bổ sung, cập nhật những nội dung được đưa lên web của cơ quan QLNN cùng phản hồi, bảo đảm tính chính thống, tuân thủ các quy phạm về bảo mật, tính chính xác, hữu ích, thời sự.

– Kiến thức và kỹ năng về dữ liệu lớn (Big Data) từ các thông tin riêng lẻ, rời rạc, nguồn phân tán trong và ngoài nước về từng chủ đề đến cách chọn lọc, xử lý thống kê phái sinh và kỹ thuật hóa những điều đó trở thành nguồn tài nguyên quý cho các ngành, cơ quan, đối tượng.

– Giúp học viên thực tập, tác nghiệp thâm nhập vào thực tế xác định nhu cầu thông tin của xã hội, của các đối tượng, thiết kế nội dung, truyền tải lên web và các kênh truyền thông điện tử.

Với tầm quan trọng và tính chất của phổ cập CPĐT, những nội dung cần đào tạo, bồi dưỡng nêu trên cần dung lượng, thời gian đào tạo, bồi dưỡng cho CBCCVC ít nhất là 1 tín chỉ (theo hệ thống ECTS – the European Credit Transfer System).

Trong tương lai, CPĐT như hình thái kỹ thuật – xã hội với tính phổ cập sâu rộng và khuynh hướng đó sẽ thúc đẩy đến “Đám mây dữ liệu liên Chính phủ” và “Chính phủ số”. Bởi vậy, các nội dung được đào tạo cho CBCCVC cũng cần gợi mở, phát triển cách tiếp cận, hướng vào các đề án đào tạo tổng thể, dài hơn, liên kết với các chuyên đề từng có của Học viện Hành chính Quốc gia (cũng cần được số hóa – tích hợp các nội dung giảng dạy). Chương trình như thế nên bắt đầu trở thành một đề án nghiên cứu nhằm đào tạo “trên 1 tín chỉ” cho mọi đối tượng, các cấp, ngành về CPĐT mở rộng.

Tài liệu tham khảo:
1. Luật Giao dịch điện tử năm 2005.
2. Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế “Một cửa”, “Một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính.
3. Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
4. Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về công tác văn thư.
5. Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
6. Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển “Chính phủ điện tử” giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến 2025.
7. Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước.
Nguyễn Tất Thịnh
Học viện Hành chính Quốc gia