Một số khó khăn, tồn tại trong quá trình xây dựng, phát triển và hoạt động của Chính phủ điện tử ở Việt Nam  

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Chính phủ Việt Nam xác định xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số là một trong những ưu tiên hàng đầu hiện nay.

 

Ảnh minh họa (Nguồn: internet).

Chính phủ điện tử (CPĐT) đang là một vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới. Với những lợi ích to lớn mà nó đem lại, CPĐT được coi như hình thức Chính phủ hiện đại nhất, tối ưu nhất tính đến thời điểm hiện tại. Việt Nam, bằng sự vào cuộc một cách quyết liệt của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã giành được những thành tựu đáng khích lệ trong xây dựng CPĐT. Trong bảng xếp hạng chỉ số phát triển CPĐT – EGDI của Liên hiệp quốc, Việt Nam luôn giành được thứ hạng cao (86/193 quốc gia trên thế giới và 6/10 quốc gia ASEAN)1. Tuy nhiên, quá trình xây dựng, phát triển và hoạt động của CPĐT ở Việt Nam gặp không ít khó khăn, tồn tại cần sớm có hướng khắc phục để hoàn thành đúng như mục tiêu đã đặt ra.

Những khó khăn, tồn tại trong quá trình xây dựng, phát triển và hoạt động của Chính phủ điện tử.

Thứ nhất, về thể chế. Trong thời gian qua, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền đã xây dựng, ban hành một số văn bản pháp luật, tạo cơ sở hành lang pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy triển khai CPĐT, như: Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật An ninh mạng năm 2018… Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay vẫn còn những khoảng trống đối với những quy định về kết nối, chia sẻ dữ liệu trong hoạt động của cơ quan nhà nước; còn thiếu các chuẩn đánh giá cụ thể đối với CPĐT trong từng lĩnh vực quản lý và thiếu gắn kết giữa ứng dụng công nghệ thông tin với hoạt động cải cách hành chính, quyền riêng tư và bảo mật, quyền truy cập của người khuyết tật, hỗ trợ ngoại ngữ… đây là một nội dung cần phải ưu tiên tập trung giải quyết.

Thứ hai, về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức. Lợi ích của CPĐT là quá rõ ràng nhưng thay đổi để thích ứng với cách thức làm việc trong môi trường mới thì không phải là điều mà ai cũng muốn và có thể thực hiện. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 cho thấy: “Vẫn còn những hạn chế trong đội ngũ cán bộ, công chức thực thi công vụ”2.

Thứ ba, về nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Dự báo nhu cầu nhân lực ngành công nghệ thông tin tăng 56% trong năm 2019, tương đương với 62.829 việc làm, tăng xấp xỉ 5 lần so với nhu cầu năm 2015, sẽ thiếu hụt khoảng 190.000 người vào năm 20213 Trong khi đó, vẫn còn nhiều bất cập trong công tác đào tạo cũng như sử dụng nguồn nhân lực này: chương trình đào tạo có một số nội dung lạc hậu, không theo kịp với thực tiễn phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới; chế độ đãi ngộ chưa tương xứng nên vẫn xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám” từ các doanh nghiệp trong nước sang các doanh nghiệp nước ngoài, từ khu vực công sang khu vực tư nhân…

Thứ tư, hạ tầng công nghệ và cơ sở dữ liệu. Theo thống kê của Ookla, mạng internet băng thông rộng tại Việt Nam đã đạt tốc độ 47,66 Mb/giây trong tháng 4/2020. Mặc dù thấp hơn mức trung bình của thế giới (74,74 Mb/giây), nhưng cũng đã tăng 5 bậc và xếp thứ 59 trên toàn thế giới4. Với mạng 4G phủ kín như hiện nay, từ năm 2021, Việt Nam sẽ triển khai mạng 5G trên diện rộng5 và được xếp vào nhóm các quốc gia đi đầu về phát triển mạng 5G. Tuy vậy, hạ tầng công nghệ là chưa đủ, chúng ta còn cần phải có cơ sở dữ liệu – yếu tố cốt lõi, không thể tách rời của chuyển đổi số.

Hiện các thông tin về đất đai, môi trường, thị trường… ở Việt Nam còn rất nhiều tồn tại, như: mức độ số hóa, tính đồng bộ, tính tương thích, khả năng cập nhật còn thấp đã gây những cản trở nhất định cho vận hành Chính phủ số. Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ một trong những bước đột phá để thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 là phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số. Nghị định 47/2020/NĐ-CP về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước cũng đã xác định rõ vị trí và tầm quan trọng của dữ liệu số trong quá trình xây dựng CPĐT hướng tới Chính phủ số6.

Thứ năm, về các vấn đề kinh tế – xã hội. Cụ thể: (1) Trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đồng đều giữa các địa phương. Sự khác biệt lớn về kinh tế – xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán và nhân khẩu học giữa các địa phương là một trong những cản trở lớn đến quá trình phát triển CPĐT, Chính phủ số cả trên các mặt phát triển kết cấu hạ tầng, nhân lực và sự ủng hộ tham gia của người dân. (2) Nhận thức và mức độ sẵn sàng của người dân: để thành công trong phát triển CPĐT bên cạnh sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị còn kể đến mức độ sẵn sàng của người dân. Số lượng người dân Việt Nam sử dụng Internet năm 2020 là 68,17 triệu người, chiếm trên 70% dân  số7 (được xếp vào các nước có độ phổ khá, so với yêu cầu trên 80% của mức độ phủ cao). Tuy nhiên, để thích ứng với hoạt động của CPĐT thì vẫn còn một bộ phận đáng kể người dân chưa sẵn sàng hoặc cảm thấy rất khó khăn, đặc biệt là với nhóm người lớn tuổi. Nếu như ở Singapore, họ có những trung tâm hỗ trợ người dân, đặc biệt là người lớn tuổi để sử dụng CPĐT, thì ở nước ta, những cơ quan hành chính thông thường không có người hướng dẫn, người đến làm thủ tục hành chính phải tự thân vận động hoặc hỏi người xung quanh; còn CPĐT thì hầu như không có chương trình truyền thông hiệu quả nào đến người dân.

Một số giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại

Từ việc nhận diện một số khó khăn, tồn tại cho thấy để đáp ứng yêu cầu một CPĐT hoạt động hiệu quả, hướng tới xây dựng Chính phủ số vào năm 20258 cần phải nghiên cứu áp dụng một số các giải pháp sau:

Một là, đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng phát triển CPĐT. Cần sớm ban hành những quy định về chia sẻ dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân, xác thực điện tử, quyền truy cập của người khuyết tật, hỗ trợ ngoại ngữ và công nghệ thông tin…

Hai là, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của xây dựng, phát triển CPĐT gắn với yêu cầu của cải cách hành chính bằng cách đẩy mạnh công tác tuyên truyền về lợi ích, vai trò và yêu cầu của CPĐT và trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức trong việc phục vụ Nhân dân theo phương thức hiện đại. Đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng cho cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường số.

Ba là, cải tiến chương trình đào tạo, thay đổi căn bản về môi trường làm việc và chính sách đãi ngộ để bảo đảm đủ yêu cầu về nhân lực công nghệ thông tin cho hệ thống các cơ quan nhà nước cả về số và chất lượng. Chính phủ cũng như các bộ, ngành, địa phương phải có chiến lược về dữ liệu để bảo đảm kho dữ liệu phải được số hóa, cập nhật và chia sẻ thuận lợi.

Bốn là, tìm kiếm cơ hội, khai thác triệt để những lợi thế so sánh để phát triển hợp lý, cân đối giữa các địa phương, các vùng miền là điều kiện để CPĐT hoạt động hiệu quả trên toàn lãnh thổ.

Năm là, tiếp tục công tác tuyên truyền về ích lợi của CPĐT gắn với nâng cao dân trí làm tăng tính chấp nhận của người dân. Đồng thời, xúc tiến việc nghiên cứu thành lập các trung tâm (bộ phận) hỗ trợ người dân, đặc biệt là người lớn tuổi sử dụng CPĐT.

Chú thích:
1. Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử của Liên hiệp quốc năm 2020. https://publicadministration.un.org/egovkb, truy cập ngày 20/5/2021.
2. Quản lý công chức theo năng lực nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở Việt Nam. https://www.moha.gov.vn, ngày 29/4/2021.
3. Dự báo năm 2021, Việt Nam thiếu hụt khoảng 190. 000 nhân lực. https://hanoi.fpt.edu.vn, ngày 25/2/2021.
4, 8. Tốc độ internet Việt Nam tăng 5 bậc. https://vietnamnet.vn, ngày 15/6/2020.
5. Hội thảo Băng thông rộng di động & cố định (World Mobile Broadband & ICT), ngày 25/3/2021 tại Hà Nội.
6. Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ: Quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
7. Chính phủ số tại Việt Nam sẽ được hình thành vào năm 2025. http://baochinhphu.vn, ngày 10/3/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021.
2. Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến năm 2025.
3. Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
4. Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030.
TS. Vũ Xuân Thanh
Học viện Hành chính Quốc gia