Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Thái Nguyên

(Quanlynhanuoc.vn) – Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại tỉnh Thái Nguyên thời gian qua đã nhận được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến xã, từ việc ban hành chỉ thị của các cấp ủy Đảng, chính quyền thành lập Ban Chỉ đạo phân công nhiệm vụ và xây dựng quy chế làm việc tổ chức triển khai thực hiện. Các cấp, ngành, địa phương, người dân đã nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học nghề trong việc tạo việc làm và nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sản xuất – kinh doanh và phát triển kinh tế.

 

Đồng chí Nguyễn Thị Quỳnh Hương, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH, Phó Trưởng ban Thường trực BCĐ trao Bằng khen
của Chủ tịch UBND tỉnh cho các cá nhân có nhiều thành tích trong công tác “Đào tạo nghề lao động nông thôn đến năm 2020”. Ảnh: thainguyen.gov.vn
Kết quả triển khai thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Thái Nguyên

Thái Nguyên là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi Bắc Bộ, có diện tích tự nhiên 3.526,64 km2 với 9 đơn vị hành chính cấp huyện (2 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện), 178 đơn vị hành chính cấp xã. Tổng số dân năm 2019 là 1.290.945 người, trong đó dân số nam là 631.071 người, chiếm 48,88%, dân số nữ là 659.874 người, chiếm 51,12%; dân số thành thị là 413.878 người, chiếm 32,06%; dân số khu vực nông thôn là 877.067 người, chiếm 67,94%; lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 777.200 người, chiếm 60,2% tổng dân số, lực lượng lao động khu vực nông thôn là 556.900 người chiếm 71,7%.

Thái Nguyên có mạng lưới cơ sở giáo dục chuyên nghiệp với 9 trường đại học, 2 khoa đào tạo đại học trực thuộc Đại học Thái Nguyên (tương đương với trường đại học thành viên) và 1 trường cao đẳng sư phạm. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN) trên địa bàn tỉnh đến ngày 30/8/2020 có 50 cơ sở, trong đó có 13 trường cao đẳng, 7 trường trung cấp, 13 trung tâm GDNN công lập và 17 cơ sở khác có tham gia hoạt động GDNN. Trong tổng số 50 cơ sở GDNN có 37 cơ sở công lập (chiếm 74%) và 13 cơ sở ngoài công lập (chiếm 26%). Quy mô đào tạo các cấp trình độ mỗi năm bình quân gần 100.000 học sinh, sinh viên cung cấp cho thị trường lao động.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010: 43,72% (trong đó qua đào tạo nghề 23,58%); năm 2015: 58,1% (qua đào tạo nghề 37,62%; có bằng cấp, chứng chỉ 25,4%). Năm 2020: tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70% (có văn bằng,chứng chỉ 30,5%). Chỉ số đào tạo lao động thuộc chỉ số PCI của tỉnh Thái Nguyên năm 2019 đứng thứ 5 toàn quốc cao nhất trong các chỉ số đánh giá PCI của tỉnh với 7,88 điểm, góp phần nâng thứ hạng PCI của tỉnh lên 6 bậc (từ vị trí 18 năm 2018 lên vị trí 12 năm 2019)1.

Với những số liệu từ Báo cáo tổng kết Đề án: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thời gian qua cho thấy, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã nhận được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến xã, từ việc ban hành chỉ thị của các cấp ủy Đảng, chính quyền thành lập Ban Chỉ đạo phân công nhiệm vụ và xây dựng quy chế làm việc tổ chức triển khai thực hiện. Các cấp, ngành, địa phương, người dân đã nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học nghề trong việc tạo việc làm và nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sản xuất – kinh doanh và phát triển kinh tế.

Mạng lưới các cơ sở GDNN được mở rộng, cơ sở vật chất từng bước được đầu tư, củng cố và phát triển; nhiều ngành nghề mới được mở thêm để đào tạo đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, chất lượng đào tạo ngày càngđược nâng cao; công tác xã hội hóa GDNN được quan tâm.

Dạy nghề cho lao động nông thôn đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong khu vực nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh từ 43,72% năm 2010 lên 68,6% năm 2019 (năm 2020 đạt 70%), giảm tỷ lệ hộ nghèo năm 2019 còn 4,38%, giảm 2,01% so với năm 20182.

Thông qua đào tạo nghề người lao động nông thôn đã được trang bị kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao tay nghề cho người lao động nông thôn. Sau học nghề người lao động được giới thiệu đến làm việc tại các doanh nghiệp, hộ sản xuất – kinh doanh, được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm hoặc áp dụng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để tự tạo việc làm, phát triển kinh tế gia đình góp phần nâng cao thu nhập, phát triển kinh tế địa phương, giảm nghèo bền vững.

Một tiết thực hành của sinh viên Trường Cao đẳng Công thương Thái Nguyên. Ảnh: consosukien.vn.
Một số kinh nghiệm trong triển khai thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Thái Nguyên

Một là, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban Chỉ đạo các cấp, các cơ quan chuyên môn. Có sự phân công rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan và phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện. Công tác chỉ đạo điều hành phải tập trung, quyết liệt; xác định nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để xây dựng các chương trình, kế hoạch, hướng dẫn, có lộ trình tổ chức thực hiện. Phải chủ động, nhạy bén, tranh thủ phát huy những thuận lợi, đồng thời có các giải pháp khắc phục các khó khăn; dự báo tình hình sát thực tế, xây dựng kế hoạch triển khai phù hợp trong từng giai đoạn, từng năm.

Hai là, quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách riêng của địa phương để thu hút người lao động nông thôn tham gia học nghề. Chính sách hỗ trợ về cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chính sách hỗ trợ chi phí đào tạo đối với doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Ba là, công tác tuyên truyền, tư vấn học nghề, hướng nghiệp phải rộng khắp và đi trước một bước, cán bộ tuyên truyền phải am hiểu chính sách, nắm được đầy đủ thông tin về các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của địa phương, nhu cầu tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề, thu nhập của người lao động tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất – kinh doanh trên địa bàn và khả năng tiêu thụ sản phẩm, tạo việc làm ổn định của các địa phương thì mới tư vấn được cho lao động nông thôn nhận thức đúng và hiểu rõ về nghề mà mình có khả năng, điều kiện để chủ động đăng ký nghề cần học.

Bốn là, Ban Chỉ đạo các cấp và chính quyền địa phương cần tích cực rà soát nhu cầu đào tạo nghề của người lao động nông thôn tại các, làng nghề nông nghiệp và người lao động đang là thành viên các hợp tác xã, Tổ hợp tác sản xuất trong các làng nghề nông nghiệp và tập trung chủ yếu là người lao động trong các hợp tác xã, làng nghề chế biến; xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển sản phẩm của địa phương theo chương trình “mỗi xã phường một sản phẩm”, định hướng người dân học nghề và phát triển kinh tế tập trung phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế của địa phương. Nhân rộng mô hình đào tạo nghề nông nghiệp gắn với các Hợp tác xã, làng nghề nông nghiệp người lao động nông thôn để tiếp tục phát huy và áp dụng có hiệu quả kiến thức đã học vào sản xuất góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, người lao động nông thôn sau đào tạo đã tổ chức lại sản xuất, hình thành các hợp tác xã, tổ hợp tác phát triển có hiệu quả như tại các làng nghề chè của thị trấn Sông Cầu huyện Đồng Hỷ; các làng nghề chè tại xã Vô Tranh, Tức Tranh huyện Phú Lương; các làng nghề chè tại xã La Bằng huyện Đại Từ; các làng nghề chè của xã Phúc Xuân, Phúc Trìu Thành phố Thái Nguyên…

Năm là, huy động sự vào cuộc từ 4 cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và cấp cơ sở GDNN) trong việc kiểm tra, giám sát trong thực hiện Đề án để bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo; đặc biệt là trong việc tổ chức quản lý lớp học, đồng thời có kế hoạch quản lý học viên sau khi học nghề, giải quyết việc làm, mở rộng hình thức cho vay đối với người lao động tham gia học nghề để tạo điều kiện phát triển nghề đã học. Từ đó kịp thời có giải pháp tháo gỡ, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Đề án.

Sáu là, có cơ chế khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đăng ký tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp, trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực cho công ty bằng các chính sách riêng của địa phương để hỗ trợ chi phí đào tạo cho các doanh nghiệp sử dụng trực tiếp nguồn nhân lực sau đào tạo. Huy động sự tham gia của doanh nghiệp trong việc xây dựng, thẩm định chương trình, giáo trình đào tạo, tham gia giảng dạy cho người lao động nông thôn. Việc xây dựng chương trình đào tạo bám sát với thực tế sản xuất của doanh nghiệp, sau đào tạo người lao động có thể bắt nhịp ngay với trang thiết bị và phương thức sản xuất của doanh nghiệp.

Trường Trung cấp nghề Thái Nguyên. Ảnh: daynghetn.edu.vn.
Kiến nghị giải pháp thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới

Mục tiêu giai đoạn 2021 – 2025 và đến năm 2030, tỉnh Thái Nguyên xác định đào tạo nhân lực các cấp trình độ trong 05 năm là 217.400 người (chia theo cấp trình độ: bình quân đào tạo trình độ cao đẳng 21.650 người, trung cấp là 54.250 người, sơ cấp, đào tạo theo các chương trình nghề nghiệp khác 141.500 người). Mỗi năm tuyển mới: trình độ cao đẳng 4.800 người, trung cấp là 11.000 người, sơ cấp, đào tạo theo các chương trình nghề nghiệp khác 27.000 người. Mỗi năm đào tạo nghề cho 4.000 lao động nông thôn, tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm hoặc tiếp tục làm công việc cũ nhưng năng xuất lao động và thu nhập tăng lên sau đào tạo đạt trên 80%. Mỗi năm đào tạo, bồi dưỡng cho: 500 lượt cán bộ, công chức cấp xã và 200 lượt cán bộ, nhà giáo giáo dục nghề nghiệp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2025 đạt 75%, trong đó có văn bằng, chứng chỉ đạt 32%3.

Kiến nghị về chính sách của trung ương là tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2020 – 2030; ban hành quy hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia, quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2020 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tăng cường hệ thống thông tin dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia hàng năm và từng giai đoạn. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách đang thực hiện, rà soát, đánh giá, điều chỉnh chính sách phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội và khoa học – công nghệ.

Điều chỉnh nguyên tắc, cơ chế phân bổ vốn ngân sách thực hiện chương trình giai đoạn 2021 – 2025 theo hướng khắc phục những tồn tại, hạn chế của giai đoạn 2016 – 2020 và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình, trong đó ưu tiên nguồn lực hỗ trợ cho các địa phương vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu căn cứ cách mạng… Đề nghị Trung ương hỗ trợ tỉnh kinh phí xây dựng cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao. Tăng nguồn kinh phí hằng năm chi cho hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp và bồi dưỡng cán bộ, giáo viên tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Kiến nghị tỉnh Thái Nguyên bố trí ngân sách đối ứng xây dựng cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao. Tăng nguồn kinh phí hàng năm để đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp và bồi dưỡng cán bộ, giáo viên tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Bổ sung nguồn kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập.

Về giải pháp triển khai thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên:

Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo phù hợp cho các cơ sở tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn và các đối tượng chính sách, nhất là hệ thống các trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên cấp huyện.

Triển khai có hiệu quả, bảo đảm các mục tiêu đề ra tại Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 – 2025” và Kế hoạch số 86/KH-UBND ngày 19/6/2019 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc thực hiện Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 – 2025”, theo đó, mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu ít nhất 30% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập tại cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN trình độ cao đẳng; đến năm 2025, phấn đấu các chỉ tiêu tương ứng là 40% và 45%.

Xây dựng đơn vị chuyên trách thực hiện việc kết nối giữa giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp và trường chuyên biệt đào tạo cho học sinh dân tộc nội trú.

Bố trí bổ sung từ nguồn ngân sách địa phương để hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh.

Nâng cao năng lực, hiệu quả của hệ thống thông tin thị trường lao động, tăng cường sự gắn kết giữa doanh nghiệp với cơ sở GDNN, giữa cơ sở GDNN với người học và đơn vị sử dụng lao động, tăng cường duy trì các hoạt động sàn giao dịch việc làm, phiên giao dịch lưu động để người lao động, có cơ hội học nghề và tìm kiếm việc làm phù hợp với bản thân.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động về GDNN, trong đó có các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn để có biện pháp tháo gỡ, xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc.

Chú thích:
1, 3. Kế hoạch số 86/KH-UBND ngày 19/6/2019 của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc thực hiện Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 – 2025”.
2. Báo cáo tổng kết Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định số 1956/QĐ-TTgngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 – 2025”.
ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương
Trường Cao đẳng Kinh tế – Tài chính Thái Nguyên