Tạo động lực làm việc cho cán bộ cảnh sát điều tra trong tình hình hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm gần đây, tình hình hoạt động của các loại tội phạm có biểu hiện diễn biến hết sức phức tạp. Phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động, liều lĩnh, có tổ chức… đã gây khó khăn cho công tác phòng ngừa và đấu tranh của lực lượng chức năng. Từ thực trạng trên, ngoài việc phải có các giải pháp về chế độ, chính sách phù hợp, mà còn phải tạo động lực làm việc cho cán bộ cảnh sát điều tra để có tinh thần, ý thức và hiệu quả cao nhất trong thực hiện nhiệm vụ.
Công an các phường ven biển Thọ Quang, Mân Thái, Xuân Hà, Thanh Khê Tây giúp ngư dân đưa tàu thuyền lên bờ, neo đậu an toàn tránh bão. Ảnh: https://cand.com.vn.

Điều 68, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu rõ: “…Nhà nước bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc”1.

Là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của lực lượng Công an nhân dân (CAND), trong những năm qua, đội ngũ cán bộ cảnh sát điều tra (CSĐT) luôn là lực lượng gương mẫu, tiên phong đi đầu trong rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh trên trận tuyến đấu tranh phòng, chống tội phạm góp phần thắng lợi vào sự nghiệp bảo đảm an ninh, trật tự (ANTT) mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Có được điều đó là nhờ Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Công an luôn nhận thức được tầm quan trọng của công tác tạo động lực làm việc cho đội ngũ cán bộ CAND nói chung và đội ngũ cán bộ CSĐT nói riêng, luôn quan tâm, động viên, khích lệ đội ngũ cán bộ CSĐT yên tâm công tác, chiến đấu.

Các biện pháp tạo động lực làm việc cho cán bộ Cảnh sát điều tra

“Động lực” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội, ví dụ như: động lực phát triển, động lực học tập, động lực phấn đấu, động lực làm việc… Theo Từ điển tiếng Việt của GS. Hoàng Phê, thì “Động lực là cái thúc đẩy, làm cho phát triển”2. Tiếp cận dưới góc độ tâm lý học, theo Từ điển tâm lý học của GS.TS. Vũ Dũng: “Động lực được hiểu là cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thỏa mãn những nhu cầu của chủ thể, có khả năng khơi dậy tính tích cực của chủ thể và xác định tính xu hướng của nó”3. Dưới góc độ quản lý nguồn nhân lực, PGS.TS Nguyễn Ngọc Quân và ThS. Nguyễn Vân Điềm định nghĩa: “Động lực là sự khát khao và tự nguyện của người lao động để tăng cường nỗ lực nhằm hướng tới việc đạt được mục tiêu của tổ chức”4.

Cán bộ CSĐT làm việc trong các đơn vị thuộc Cơ quan CSĐT, được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực điều tra, hình sự, giúp Thủ trưởng cơ quan CSĐT tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện một số hoạt động điều tra hình sự theo quy định của tố tụng hình sự và pháp luật về điều tra hình sự. Đội ngũ cán bộ CSĐT được đào tạo, bồi dưỡng từ nhiều chuyên ngành khác nhau, với trình độ, kinh nghiệm công tác không đồng đều, được tổ chức, biên chế theo quy định tại Điều 18, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định về tổ chức bộ máy của Cơ quan CSĐT.

Hoạt động của cán bộ CSĐT luôn phải đối mặt với các loại tội phạm, luôn ở trong trạng thái căng thẳng về tinh thần, thể lực. Nét đặc thù trong hoạt động của đội ngũ này là tính chất phức tạp, tính biến động lớn về nhiệm vụ và diễn ra trong một không gian rộng và thời gian khẩn trương, bất kể ngày đêm, trong mọi điều kiện, khí hậu, thời tiết. Đặc biệt, đối tượng đấu tranh của đội ngũ cán bộ CSĐT cực kỳ phức tạp, nguy hiểm, chống lại quyết liệt, bằng mọi thủ đoạn. Đặc điểm này đòi hỏi phải xây dựng cho đội ngũ cán bộ CSĐT có ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn, gian khổ nào, sẵn sàng chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của bọn tội phạm.

Động lực của cán bộ CSĐT được thể hiện thông qua thái độ và hành vi của họ đối với công việc đảm nhiệm và đối với tổ chức, tập thể. Mỗi cán bộ CSĐT đảm nhận những công việc khác nhau sẽ có những động lực khác nhau. Như vậy, động lực làm việc của một cá nhân gắn liền với một công việc, một tổ chức và một môi trường làm việc cụ thể. Để có thể tạo động lực làm việc cho cán bộ thì các đơn vị CSĐT phải xem xét đưa ra chính sách nào để thúc đẩy động lực làm việc của họ, tạo ra môi trường làm việc, môi trường giao tiếp như thế nào để cán bộ cảm thấy thoải mái nhất và có động lực làm việc cao nhất…

Tạo động lực cũng chính là tạo ra sự hấp dẫn của công việc, của kết quả thực hiện công việc, của tiền lương, tiền thưởng… Sự hấp dẫn càng lớn thì lợi ích đem lại cho cán bộ càng lớn, khi đó cán bộ càng hăng say làm việc để có thể đạt được lợi ích đó. Khi cán bộ cảm thấy sự hấp dẫn trong công việc, họ làm việc một cách tự nguyện, nhiệt tình vì thế trong công tác quản lý cần quan tâm tạo động lực cho cán bộ để hướng hành vi của cán bộ theo một chiều hướng quỹ đạo nhất định. Như vậy, có thể hiểu, tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực CAND nói chung và nguồn nhân lực CSĐT nói riêng, là quá trình tổ chức triển khai thực hiệncó hiệu quảhệ thống chính sách, biện pháp, kế hoạch để kích thích cán bộ CSĐT công tác, chiến đấu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Hiệu quả tạo động lực làm việc được thể hiện ở kết quả thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao; hiệu suất, hiệu quả công việc; tiến độ thực hiện và hoàn thành công việc; mức độ hăng hái, nhiệt tình, hăng say trong công việc của cán bộ CSĐT. Hiệu quả tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT thường bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau, trên thực tế, để đánh giá hiệu quả tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT là một vấn đề rất khó. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả đã chia thành hai nhóm biện pháp về tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT:

(1) Tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT thông qua hệ thống kích thích vật chất, bao gồm: chính sách tiền lương, chính sách tiền thưởng, các chế độ phụ cấp theo lương (phụ cấp đặc thù; phụ cấp ưu đãi theo nghề, trách nhiệm theo nghề; phụ cấp đảng, đoàn thể; phụ cấp đặc biệt; phụ cấp khu vực; phụ cấp độc hại, nguy hiểm…) và các chế độ phúc lợi (bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, các chế độ ngơi, nghỉ dưỡng, nhà ở công vụ…)

(2) Tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT thông qua hệ thống kích thích tinh thần, cụ thể:

– Tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT trên nền công tác chính trị, tư tưởng: công tác giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ CSĐT; công tác báo chí, tuyên truyền và thông tin cổ động; công tác văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao; công tác thi đua, khen thưởng.

– Tạo động lực làm việc cho cán bộ thông qua phân công công việc, định hướng rõ mục tiêu nhiệm vụ công tác, xây dựng văn hóa tổ chức và cải thiện môi trường công tác: Phân công công việc phù hợp với năng lực và sở trường của cán bộ; định hướng, phân tích rõ mục tiêu, nhiệm vụ cần đạt của từng cán bộ; giao nhiệm vụ có tính thử thách cán bộ CSĐT; xây dựng văn hóa tổ chức trong các đơn vị CSĐT; cải thiện điều kiện làm việc cho cán bộ.

– Tạo động lực làm việc thông qua thực hiện các nội dung của công tác cán bộ: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CSĐT; tạo cơ hội cho cán bộ CSĐT phát triển, quy hoạch, bổ nhiệm các chức danh điều tra; luân chuyển và điều động cán bộ; nhận xét, đánh giá, xếp loại cán bộ.

Cán bộ, chiến sĩ Công an quận Sơn Trà hỗ trợ nhân dân di dời, chèn chống nhà cửa. Ảnh: https://cand.com.vn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo động lực làm việc cho cán bộ cảnh sát điều tra

Thứ nhất, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến đời sống cán bộ CSĐT.

Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Ngành là cơ sở pháp lý để bảo đảm các quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ CSĐT; có vai trò quan trọng trong việc duy trì, kích thích nỗ lực làm việc của cán bộ CSĐT để thỏa mãn nhu cầu bản thân và là một trong những yếu tố quan trọng góp phần động viên cán bộ CSĐT hoàn thành tốt nhiệm vụ. Khi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, chế độ chính sách trong CAND càng hoàn thiện, công minh và hiệu lực thì sẽ bảo đảm cho mọi cán bộ CSĐT có được sự bình đẳng trong công việc, tạo ra sự công bằng trong thực thi nhiệm vụ, chống lại sự phân biệt đối xử, giúp cán bộ CSĐT yên tâm công tác. Đồng thời, hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật được cập nhật, sửa đổi thường xuyên sẽ bảo đảm các quyền lợi cho cán bộ, từ đó, tạo ra động lực làm việc cho họ góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo đảm ANTT. Tuy nhiên hiện nay, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ CSĐT còn rườm rà, chưa rõ ràng, gây khó khăn, trở ngại cho quá trình công tác, ảnh hưởng đến tâm lý của cán bộ CSĐT, chưa phản ánh hết đặc thù của nhiệm vụ, chưa thực sự là đòn bẩy về tinh thần và nâng cao chất lượng công tác.

Thứ hai, tác động của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

Hiện nay, đất nước ta đang hội nhập sâu rộng với thế giới trên nhiều lĩnh vực. Thuận lợi là rất lớn nhưng thách thức, nguy cơ không hề nhỏ. Mặt trái của cơ chế thị trường và mặt trái quá trình mở cửa hội nhập đã và đang có những tác động tiêu cực đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội kéo theo sự phát triển của lối sống thực dụng vì đồng tiền, sụt giảm ý chí chiến đấu, xa rời lý tưởng, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức và quần chúng nhân dân, trong đó có cán bộ CSĐT. Trong bối cảnh đó đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến bản lĩnh chính trị, đến động lực làm việccủa cán bộ CSĐT. Một khi không giữ vững lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị thì cán bộ CSĐT rất dễ bị sa ngã, vi phạm kỷ luật công tác, vi phạm pháp luật, làm giảm sút động lực làm việc của cán bộ CSĐT.

Thứ ba, âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống hoạt động của các loại tội phạm trong và ngoài nước, cán bộ CSĐT luôn phải đối mặt với các âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc của các loại tội phạm. Chúng tìm mọi cách để lôi kéo, mua chuộc, dụ dỗ các cán bộ CSĐT bằng những lợi ích vật chất, tạo ra sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ các đơn vị và trong mỗi cán bộ. Khi không lôi kéo, mua chuộc được thì chúng tìm cách bôi xấu, hạ bệ, gây chia rẽ nội bộ. Tất cả các yếu tố đó có tác động ảnh hưởng thường xuyên, liên tục đến bản lĩnh chính trị, nhận thức, tư tưởng, động lực làm việc của cán bộ CSĐT. Vì vậy, tạo động lực làm việc phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, kết hợp chặt chẽ với công tác chính trị, tư tưởng để làm tốt chức năng trang bị nhận thức, lập trường, tư tưởng cho cán bộ CSĐT để họ yên tâm công tác, chiến đấu.

Thứ tư, đặc điểm lao động và điều kiện công tác của cán bộ CSĐT.

Lao động của cán bộ CSĐT là loại hình lao động chứa đựng các yếu tố đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; thường xuyên phải tiếp xúc với rất nhiều loại đối tượng; hoạt động của các cán bộ CSĐT diễn ra trên mọi lĩnh vực, ở mọi địa bàn, trong mọi thời gian, tình huống phức tạp, bất ngờ, không phân rõ trận tuyến. Xuất phát từ tính chất công việc nguy hiểm của cán bộ CSĐT, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần phải tạo ra điều kiện làm việc thuận lợi nhất cho cán bộ CSĐT để họ có động lực làm việc trong mọi hoàn cảnh. Thông qua việc áp dụng các phương tiện, công cụ hỗ trợ hiện đại sẽ làm cho cán bộ CSĐT giảm được một lượng lớn hao phí sức lao động, khiến công việc của họ đơn giản, nhẹ nhàng, an toàn hơn, cảm thấy yên tâm về tính mạng, sức khỏe, từ đó, tâm lý sẽ ổn định và chuyên tâm vào công việc, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của các đơn vị CSĐT.

Thứ năm, phong cách của lãnh đạo, chỉ huy trong các đơn vị CSĐT.

Tùy vào tính cách cá nhân, điều kiện làm việc mà mỗi lãnh đạo, chỉ huy có một phong cách lãnh đạo khác nhau. Không có phong cách lãnh đạo nào là hoàn hảo, là tối ưu trong giải quyết công việc. Người lãnh đạo, chỉ huy trong các đơn vị CSĐT cần xác định cho mình một phong cách lãnh đạo phù hợp với đặc điểm của đơn vị mình, với môi trường làm việc để có thể phát huy cao nhất khả năng của bản thân người lãnh đạo, chỉ huy cũng như khai thác năng lực, trình độ của cán bộ CSĐT vào thực tiễn công tác, chiến đấu. Khi cán bộ CSĐT luôn cảm thấy họ có ý nghĩa, quan trọng trong công việc, đơn vị, thì họ sẽ cảm thấy hưng phấn trong công việc cũng có nghĩa là họ có động lực để hoàn thành công việc.

Thứ sáu, năng lực và kinh nghiệm công tác của cán bộ CSĐT.

Năng lực của cán bộ CSĐT thể hiện thái độ, trình độ, kỹ năng, sự hiểu biết và kinh nghiệm của cán bộ CSĐT đối với công việc. Năng lực được xây dựng và phát triển qua quá trình công tác của mỗi cán bộ. Như vậy, năng lực của mỗi cán bộ CSĐT là khác nhau nên động lực khiến họ làm việc tích cực cũng khác nhau. Nhưng khi cán bộ CSĐT được đảm nhận những công việc phù hợp với năng lực, khi họ có được những điều kiện làm việc đầy đủ họ sẽ có động lực làm việc để phát huy tốt nhất năng lực của mình.

Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo động lực làm việc cho cán bộ cảnh sát điều tra trong tình hình hiện nay

Một là, tăng cường nhận thức, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương đối với việc nâng cao hiệu quả tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT.

Việc nhận thức đúng đắn những vấn đề lý luận về tạo động lực làm việc là điều kiện quan trong làm thay đổi cách thức điều hành của cấp ủy, lãnh đạo các đơn vị. Thực tế đã chỉ ra rằng, chỉ khi nào có cách nhìn nhận đúng đắn về một vấn đề mới tạo ra hành động tự giác. Tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT là quá trình phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp tác động vào lĩnh vực tinh thần, tư tưởng của cán bộ để tạo ra những biểu hiện động lực làm việc cho họ. Nếu cấp ủy, lãnh đạo các đơn vị không có nhận thức đúng đắn về vấn đề này sẽ dẫn đến tình trạng không có trách nhiệm, hời hợt, qua loa trong quá trình tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT dẫn đến hiệu quả tạo động lực làm việc không cao và gây ra lãng phí các nguồn lực. Đồng thời, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tạo động lực làm việc cho cán bộ, phải bám sát và phục vụ trực tiếp nhiệm vụ chính trị của đơn vị, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của tập thể cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu các đơn vị phải thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy và là hạt nhân quan trọng trong tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT.

Hai là, chủ động nắm chắc tình hình về diễn biến tư tưởng và kịp thời giải quyết những bức xúc, vướng mắc về tâm tư, nguyện vọng của cán bộ CSĐT.

Công tác nắm, đánh giá tình hình nội bộ, tình hình diễn biến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ CSĐT có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở, căn cứ để triển khai các hoạt động, biện pháp tạo động lực cho cán bộ CSĐT một cách phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo giữ vững ổn định và đoàn kết nội bộ, nâng cao bản lĩnh chính trị, giải quyết kịp thời diễn biến tư tưởng của cán bộ CSĐT trước những biến đổi mau lẹ, phức tạp của tình hình tội phạm. Vì thế, việc nắm tình hình tư tưởng cán bộ CSĐT phải từ nhiều nguồn, bằng nhiều hình thức, thông qua việc thực hiện nhiệm vụ được giao; thông qua sinh hoạt đảng, sinh hoạt chuyên môn, đoàn thể quần chúng hay trao đổi, đối thoại, gặp gỡ trực tiếp, phản ánh tình hình tư tưởng của cán bộ CSĐT… Có nắm vững tình hình tư tưởng cán bộ, chiến sĩ thì mới có nội dung, biện pháp tạo động lực làm việc đúng, trúng, sát hợp và có hiệu quả cao.

Ba là, vận dụng đúng, kịp thời nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các biện pháp tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT thông qua hệ thống kích thích vật chất.

Cấp ủy, lãnh đạo các đơn vị, địa phương cần tăng cường hướng dẫn việc thực hiện chế độ, chính sách ở đơn vị cơ sở, làm tốt công tác giáo dục, phổ biến, quán triệt và thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách đến từng cán bộ CSĐT. Chú trọng việc nắm bắt tư tưởng của cán bộ CSĐT trong quá trình triển khai thực hiện các chế độ, chính sách để nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách chưa phù hợp, mặt khác phải làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích thỏa đáng, kịp thời đối với cán bộ CSĐT. Tập trung nghiên cứu, đề xuất Đảng, Nhà nước ban hành hệ thống văn bản quy định về chính sách tiền lương, cấp bậc hàm, phụ cấp đối với cán bộ, chiến sĩ CAND nói chung và cán bộ CSĐT nói riêng theo hướng đồng bộ, phù hợp với đặc điểm công tác, chiến đấu của cán bộ CSĐT; phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của đất nước và bảo đảm tương quan chung trong lực lượng vũ trang; bảo đảm tính công bằng, thực sự là “đòn bẩy” thúc đẩy cán bộ hăng hái thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Muốn vậy phải tích cực kiện toàn về tổ chức, bố trí lực lượng hợp lý, tinh giản biên chế, hoàn thiện tiêu chuẩn các chức danh điều tra trong CAND. Xác định khối lượng công việc ở từng chức danh để xác định biên chế, bố trí sắp xếp cán bộ tương ứng với khối lượng, yêu cầu công việc.

Bốn là, thường xuyên đổi mới công tác chính trị, tư tưởng cho cán bộ CSĐT tạo nền vững chắc cho công tác tạo động lực làm việc.

Công tác chính trị tư tưởng là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng lượng lực CSĐT. Đây cũng là một trong những biện pháp công tác quan trọng, góp phần xây dựng lượng lực CSĐT cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, cần tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng các hình thức, phương pháp tổ chức giáo dục chính trị, tư tưởng tại các đơn vị CSĐT, thực hiện đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa công tác chính trị tư tưởng với các mặt công tác khác nhằm xây dựng lực lượng CSĐT có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách, khó khăn bởi những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và các loại tội phạm ở trong nước và thế giới.

Năm là, coi trọng và thực hiện có hiệu quả các nội dung của công tác cán bộ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”5, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”6. Để làm tốt các nội dung công tác cán bộ, góp phần quan trọng vào việc nâng cao động lực, tinh thần làm việc cho cán bộ CSĐT, cấp ủy, lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương cần đặc biệt quan tâm, chú trọng chăm lo, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ trong đơn vị; lấy đó làm nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CSĐT trong sạch, vững mạnh; tập trung xây dựng chế độ, chính sách, tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi để tài năng cán bộ nảy nở, phát triển và cống hiến tài năng đó cho sự nghiệp đấu tranh phòng, chống tội phạm trên lĩnh vực TTATXH. Song song với đó, cần tiếp tục rà soát, kịp thời tham mưu, đề xuất với cấp có thẩm quyền trong việc sửa đổi, bổ sung hệ thống các quy chế, quy trình về công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ ngày càng công khai, dân chủ, minh bạch; quán triệt để các chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Đảng về công tác cán bộ phù hợp với tính chất, đặc điểm công tác của lực lượng CSĐT.

Sáu là, tiếp tục xây dựng văn hóa tổ chức, cải thiện môi trường và điều kiện làm việc thuận lợi cho cán bộ CSĐT.

Quán triệt quan điểm của Đảng, trước tình hình phức tạp của các loại tội phạm, Công an các đơn vị, địa phương cần tăng cường về mọi mặt, quan tâm đầu tư, nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu công tác. Phát huy tinh thần sáng tạo, khắc phục khó khăn, chủ động khai thác nhiều nguồn lực để từng bước bổ sung, nâng cấp hiện đại hóa trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn cho công tác, chiến đấu của các đơn vị CSĐT. Chú trọng xây dựng văn hóa tổ chức, cốt lõi là xây dựng văn hóa chính trị và bầu không khí làm việc phấn khởi, hăng hái cho CBCS. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”, phát động các phong trào xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử trong đơn vị, xây dựng tác phong làm việc chính quy, theo điều lệnh; không ngừng cải tiến lề lối làm việc, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, làm việc theo Hiến pháp, pháp luật.

Có thể khẳng định, tạo động lực làm việc cho cán bộ CSĐT giữ một vai trò đặc biệt quan trọng không những cho bản thân cán bộ CSĐT mà còn cho cả các đơn vị CSĐT. Bởi vì tạo động lực làm việc không những kích thích cán bộ CSĐT gia tăng cường độ lao động, khả năng chiến đấu, nâng cao nhận thức chính trị, hiệu quả công tác mà còn giúp các đơn vị CSĐT hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp trên giao, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương./.

Chú thích:
1. Quốc hội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. H. NXB Chính trị quốc gia, 2013.
2. Hoàng Phê. Từ điển Tiếng Việt. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
3. Vũ Dũng. Từ điển tâm lý học. H. NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2008.
4. Nguyễn Vân Điềm, Nguyễn Ngọc Quân. Giáo trình Quản trị nhân lực. H. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007, tr.22.
5. Hồ Chí Minh. Toàn tập. H. NXB Chính trị quốc gia, 2004, t.5, tr.269.
6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. H. NXB Chính trị quốc gia, 2004, t.5, tr.240.
Hàn Anh Tuấn
Công an huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
Trần Minh Tuấn
Học viện Chính trị Công an nhân dân