(Quanlynhanuoc.vn) – Chiều ngày 10/12/2021, tại Hà Nội, Cục Kinh tế hợp tác (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và Cục Phát triển Hợp tác xã (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã tổ chức hội nghị tham vấn về 2 dự thảo Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ Năm, Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012.
Đồng chủ trì Hội nghị, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ông Phùng Quốc Chí, Cục trưởng Cục Phát triển Hợp tác xã – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tham dự Hội nghị có hơn 80 đại biểu là thành viên thuộc Văn phòng Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (HTX) và các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế tập thể.
Trước khi tổ chức Hội nghị tham vấn, 2 dự thảo Báo cáo đã được gửi tới các thành viên Ban chỉ đạo Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể của 17 bộ, ngành để lấy ý kiến đóng góp, hoàn thiện. Tại Hội nghị, các đại biểu, chuyên gia tiếp tục thảo luận nội dung Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ Năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 13) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012.
Tại diễn đàn Hội nghị, đã có 11 ý kiến chuyên gia và từ các tổ chức Hội tham gia thảo luận trực tiếp.
Bài học rút ra sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13 và cần tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể
Trong 20 năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực kinh tế tập thể (KTTT) đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau trong đó có những thuận lợi và khó khăn, thách thức nhất định. Nổi bật nhất là sự thay đổi mô hình HTX kiểu cũ kém hiệu quả sang mô hình HTX kiểu mới, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Khu vực KTTT với nhiều loại hình tổ chức kinh tế hợp tác đa dạng tổ hợp tác, HTX, Liên hiệp HTX, trong đó nòng cốt HTX là một trong những thành phần kinh tế quan trọng, đóng góp vào những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Các tổ chức kinh tế hợp tác đã từng bước liên kết những người sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, để hợp sức, góp vốn tạo điều kiện thuận lợi tương trợ lẫn nhau cùng phát triển, nhằm chia sẻ nguồn lực, lợi ích, kinh nghiệm, tạo nên mối liên hệ hài hòa giữa các thành viên theo hướng liên kết cộng đồng, mở rộng hợp tác giữa thành phần KTTT với các thành phần kinh tế khác.
Khu vực KTTT đã khắc phục được một phần tình trạng yếu kém kéo dài, từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường, bước đầu khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở và sự phát triển kinh tế của thành viên.
Nghị quyết số 13 đã khắc phục kịp thời một số tồn tại của KTTT, đặc biệt thống nhất về nhận thức, quan điểm chỉ đạo về phát triển KTTT từ trung ương đến địa phương và sửa đổi, bổ sung một số chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể. Nghị quyết xác định “KTTT phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt, kinh tế nhà nước cùng với KTTT ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”; làm tiền đề, nền tảng ra đời Luật HTX năm 2003 và Luật HTX năm 2012, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho KTTT phát triển. Từ năm 2002 đến nay, KTTT đã có bước chuyển biến rõ nét, thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài, tư duy HTX kiểu cũ dần được xóa bỏ, từng bước vươn lên khẳng định vị trí, vai trò trong phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, sau 20 năm triển khai, thực hiện Nghị quyết số 13, khu vực KTTT của nước ta vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, chưa phát huy được tối đa tiềm năng của mình trong hỗ trợ phát triển kinh tế thành viên cũng như đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước. Với tư cách là một trong những thành phần kinh tế quan trọng của đất nước, khu vực KTTT vẫn còn nhiều mặt yếu kém kéo dài, chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
KTTT nước ta đang đứng trước những thách thức, khó khăn cả về khách quan lẫn chủ quan. Về khách quan, đó là sự bất ổn ở nhiều khu vực trên thế giới; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp. Về chủ quan, đó là năng lực nội tại còn hạn chế; số HTX quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả còn ít; lợi ich đem lại cho thành viên chưa nhiều; đóng góp của KTTT chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội,… Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với khu vực KTTT là phải phát huy nội lực, vươn lên thoát khỏi những tồn tại yếu kém căn bản, đổi mới phương thức quản lý kinh doanh; ứng dụng mạnh mẽ khoa học – kỹ thuật, công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu hội nhập, toàn cầu hoá nền kinh tế và đảm nhiệm tốt vai trò nền tảng vững chắc trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều này đòi hỏi cần có những phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển phù hợp cho những năm tiếp theo.
Mục tiêu tổng quát thời gian tới là tiếp tục phát triển KTTT năng động, hiệu quả, bền vững thực sự là thành phần quan trọng trong nền kinh tế với nhiều mô hình liên kết, hợp tác trên cơ sở tôn trọng bản chất, các giá trị và nguyên tắc của KTTT, thu hút nông dân, hộ kinh tế cá thể, cá nhân và nhiều tổ chức tham gia KTTT, HTX; không ngừng nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống và bảo đảm an sinh xã hội cho các thành viên, cùng chia sẻ sự thịnh vượng và quản lý một cách dân chủ, tham gia mạnh mẽ vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KTTT, nhất là đối với HTX nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành nông nghiệp; củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại hình KTTT trên cả nước; bảo đảm các tổ chức KTTT ngày càng phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định an ninh, chính trị, đặc biệt là vùng nông thôn; gắn phát triển KTTT với thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội; hỗ trợ các HTX xây dựng và thực hiện mô hình liên kết chuỗi ở các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, tạo điều kiện hỗ trợ cho HTX liên kết với nhau và liên kết với các thành phần kinh tế khác; hỗ trợ HTX mở rộng quy mô sản xuất – kinh doanh, liên kết, hợp tác, sáp nhập thành HTX quy mô lớn; tập trung xây dựng một số mô hình điển hình tiên tiến, hiện đại để tạo điều kiện cho việc phổ biến, nhân rộng.
Các chuyên gia khuyến nghị, sau khi tiến hành tổng kết Nghị quyết số 13, Trung ương cần thiết phải ban hành Kết luận, trong đó đề ra những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012
Trên cơ sở Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 của 10 bộ, ngành, cơ quan Trung ương, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 20 báo cáo chuyên đề, 12 hội thảo chuyên gia, 3 báo cáo khảo sát thực tế của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 cho thấy, Luật quy định rõ bản chất của tổ chức HTX, đã tạo ra khung pháp luật cơ bản nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển HTX.
Sau 10 năm triển khai Luật HTX năm 2012, KTTT với nòng cốt là HTX, bước đầu thể hiện chuyển biến về chất lượng, hiệu quả, chứng tỏ ngày càng rõ nét hơn vai trò quan trọng và có ý nghĩa toàn diện về kinh tế, chính trị – xã hội, bước đầu đã có những tín hiệu mới trong công cuộc phát triển phong trào HTX toàn quốc, thể hiện trên các mặt:
(1) Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, về cơ bản đã được Chính phủ và các bộ, ngành ban hành để hướng dẫn thi hành Luật. Các địa phương ban hành nhiều văn bản triển khai thi hành Luật và bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù nhằm phát triển KTTT, HTX tại địa phương.
(2) Nhận thức về bản chất tổ chức HTX bước đầu đã dần được khẳng định và thống nhất trong toàn xã hội. Xã hội nói chung và HTX nói riêng đã dần phân biệt được giữa HTX với doanh nghiệp với tổ chức xã hội và với HTX kiểu cũ.
(3) Ưu thế và vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ thành viên, kinh tế địa phương nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung dần được khẳng định.
(4) Sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương về KTTT, HTX được nâng cao. Nhiều kế hoạch, chương trình, cơ chế, chính sách nhằm phát triển KTTT, HTX được ban hành phù hợp hơn với thực tế địa phương. Thực tế cho thấy những nơi nào được sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương thì phong trào KTTT, HTX ở nơi đó phát triển, vì phát triển KTTT, HTX phải gắn với cơ sở, người dân và đặc biệt là nông dân.
(5) Số lượng HTX tăng lên, doanh thu và thu nhập của người lao động trong HTX được cải thiện, từng bước hoạt động ổn định, qua đó, tác động tích cực đến kinh tế hộ thành viên, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị tại cộng đồng.
(6) Hoạt động khu vực KTTT, HTX có chuyển biến tích cực về quy mô, công nghệ và thị trường. Quy mô của HTX được thể hiện qua số lượng thành viên và phạm vi hoạt động của HTX.
(7) Số lượng các HTX áp dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất, kinh doanh, tham gia vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ngày càng nhiều. Trình độ cán bộ quản lý HTX được nâng cao rõ rệt. Một số HTX có đội ngũ cán bộ tâm huyết, có kinh nghiệm, nhạy bén với cơ chế thị trường, mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh của HTX.
(8) HTX không chỉ đáp ứng nhu cầu thành viên mà còn hội nhập sâu vào nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu xã hội. Xuất hiện ngày càng nhiều HTX tổ chức trình độ cao, đa ngành, đa lĩnh vực, phát triển dựa trên nền tảng số. HTX hợp tác với nhiều đối tượng, tổ chức kinh tế khác, hình thành chuỗi liên kết giá trị phát triển bền vững.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những tồn tại, nguyên nhân về tình hình thi hành Luật HTX năm 2012; đồng thời, ghi nhận từ báo cáo tổng kết của các bộ, ngành, địa phương, 100% các ý kiến đều đề xuất phải sửa đổi Luật HTX năm 2012; đề nghị cần sửa đổi các quy định pháp luật khác có liên quan một cách đồng bộ, thống nhất, giải quyết triệt để những tồn tại, mâu thuẫn, chồng chéo, làm cản trở đến sự phát triển của khu vực KTTT, HTX. Tập trung vào các nội dung chính:
Một là, hoàn thiện các quy định về bản chất HTX theo Liên minh HTX quốc tế (ICA). Thu hút và mở rộng các đối tượng tham gia khu vực KTTT nhằm phát triển thành viên HTX.
Hai là, tạo môi trường phát triển KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng nhiều loại hình, nhiều đối tượng tham gia. Làm rõ vị trí, vai trò của các tổ chức KTHT, tổ chức đại diện trong khu vực KTTT hiện nay để các tổ chức này hoạt động một cách hiệu quả, phù hợp với thực trạng ở Việt Nam và xu hướng phát triển chung trên thế giới.
Ba là, sửa đổi quy định gây cản trở HTX gia nhập thị trường không làm thay đổi bản chất HTX, nâng cao khả năng huy động vốn góp, hoàn thiện các quy định về quản lý tài sản, tài chính, tạo động lực cho HTX phát triển.
Bốn là, nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý, điều hành thông qua kiểm toán HTX, hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động của HTX.
Năm là, nâng cao hiệu quả, chất lượng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước theo hướng toàn diện, tập trung nâng cao bản chất bản chất đặc thù của HTX.
Sáu là, hoàn thiện quy định quản lý nhà nước đối với lĩnh vực KTTT theo hướng tinh gọn, hiệu quả; đơn giản hoá và rút ngắn thủ tục hành chính; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số.
Việc bổ sung, sửa đổi quy định pháp luật về HTX cần quán triệt các quan điểm: thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng về tiếp tục đổi mới, phát triển KTTT, HTX ở nước ta trong thời gian tới. Kế thừa tối đa các quy định của Luật HTX năm 2012 còn phù hợp, đang có hiệu lực, hiệu quả, đồng thời giữ vững các nguyên tắc cơ bản của HTX do Liên minh HTX quốc tế (ICA) đưa ra trong thế kỷ 21. Các quy định Luật HTX (sửa đổi) được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển HTX ở nước ta từ khi Luật HTX năm 2012 có hiệu lực thi hành (năm 2013), đồng thời tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế phù hợp với các HTX ở Việt Nam. Xây dựng một Luật chung thống nhất cho các đối tượng trong khu vực KTTT, lấy đối tượng HTX là trung tâm. Đối xử bình đẳng HTX với các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, tính tương thích với cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.