Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Doanh nghiệp nhà nước có vị trí, vai trò rất quan trọng được khẳng định trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội và trong thực tiễn của đời sống kinh tế – xã hội, đó là, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, huy động nguồn vốn, tăng môi trường cạnh tranh, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế… Trong cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, doanh nghiệp nhà nước cần phải xác định tầm quan trọng trong việc dẫn dắt, tạo động lực, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, từ đó,thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ảnh minh họa (internet)
Đặt vấn đề

Sau hơn 35 năm đổi mới nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nguồn lực của nền kinh tế được huy động và sử dụng hiệu quả cho sự phát triển kinh tế – xã hội thông qua các thành phần kinh tế, có sự thay đổi về “chất” của kinh tế nhà nước (KTNN), trong đó có hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Sự thành công trong công cuộc đổi mới chính là minh chứng sống cho đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, của phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. DNNN đã góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN, còn là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế với những đóng góp lớn về kinh tế – xã hội và hội nhập.

Vai trò và kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

DNNN là bộ phận quan trọng nhất của KTNN, giữ vị trí then chốt, trọng yếu; phải tiên phong trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, tăng năng suất lao động và đi đầu về chất lượng, hiệu quả kinh tế. Kết luận số 50-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển khoa học – công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện KTNN định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Điều này được xác định rất rõ tại Đại hội XII của Đảng, đó là: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”1.

Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục các “khuyết tật” của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng – an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”2.

Như vậy, đến nay, hệ thống DNNN đã có những bước phát triển quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của cả nền kinh tế.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê trong 3 năm qua (từ năm 2017 – 2019) số lượng DNNN giảm dần, đặc biệt đối với DN 100% vốn Nhà nước giảm từ 1.204 DN (năm 2017) xuống còn 1.014 DN (năm 2019) do tái cơ cấu và cổ phần hóa theo chính sách sắp xếp và đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Chính phủ, trong khi đó, các DN ngoài nhà nước và DN FDI tăng dần theo từng năm. Tính đến ngày 31/12/2019, DNNN có: 2.109 DN, chiếm 0,3% khu vực cả nước, giảm 7,4% so với cùng thời điểm năm 2018, trong đó DN kinh doanh có lãi (chiếm 79,3%), DN kinh doanh hòa vốn (chiếm 1,9%), DN kinh doanh lỗ (chiếm 18,8%); DN có 100% vốn nhà nước, chiếm 48,1% trong tổng số DNNN, giảm 8,2% so với cùng kỳ năm 2018; DN ngoài nhà nước, chiếm 96,9% số DN trên cả nước, tăng 9,5%, trong đó DN kinh doanh có lãi (chiếm 42,6%), DN kinh doanh hòa vốn (chiếm 8,4%), DN kinh doanh lỗ (chiếm 49%); DN FDI, chiếm 2,8% số DN trên cả nước, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó DN kinh doanh có lãi (chiếm 52,6%), DN kinh doanh hòa vốn (chiếm 1,8%), DN kinh doanh lỗ chiếm 45,6%3 (xem bảng 1 cuối bài).

Số lượng lao động thu hút vào các loại hình DN tăng theo từng năm: năm 2019 cả nước có hơn 15 triệu lao động làm việc trong các DN, trong đó DNNN thu hút hơn 1,1 triệu lao động, DN 100% vốn nhà nước là 0,66 triệu lao động, chiếm 7,3% lao động khu vực cả nước, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2018, DN ngoài nhà nước và DN FDI thu hút lần lượt 9,1 triệu lao động và 5 triệu lao động, chiếm 59,9% và 32,8% trong tổng số lao động khu vực cả nước, tăng 1,5% và 5,4% so với năm 20184 (xem bảng 2 cuối bài).

Thu nhập bình quân của người lao động đã được tăng dần theo các năm, năm 2017 thu nhập bình quân: 11.887.000 đồng/tháng/ người đến năm 2019: 14.210.000 đồng/tháng/ người, tăng 14,2%5.

Về nguồn vốn hoạt động sản xuất – kinh doanh của DNNN, năm 2017 là: 9.521.666 tỷ đồng, năm 2019 là: 9.600.480 tỷ đồng, giảm 0,3%, DN ngoài nhà nước thu hút 25,9 triệu tỷ đồng, chiếm 59,8%, tăng 16,5%, nhưng khu vực này chủ yếu là DN có quy mô lớn do vậy thu hút vốn cho SXKD đạt 9,6 triệu tỷ đồng, chiếm 22,2% tổng vốn của toàn bộ DN cả nước, giảm 0,3%, DN FDI gồm nhiều các DN có quy mô lớn, thu hút đáng kể vốn cho SXKD với 7,8 triệu tỷ đồng, chiếm 18%, tăng 11,0%6 (xem bảng 3 cuối bài).

Về doanh thu, doanh thu thuần của DNNN tăng theo từng năm, năm 2017 hơn 3,1 triệu tỷ đồng và năm 2019 đạt gần 3,6 triệu tỷ đồng. Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, năm 2019, DN ngoài nhà nước có tổng doanh thu thuần cao nhất, chiếm 57,5% doanh thu thuần của toàn bộ khu vực cả nước, tăng 12,8% so với năm 2018, DN FDI, chiếm 28,9%, tăng 11,8%, DNNN, chiếm 13,6%, tăng 5%7 (xem bảng 4 cuối bài).

Về lợi nhuận trước thuế của DNNN được giữ vững ở mức ổn định qua các năm, riêng DN FDI tạo lợi nhuận cao nhất trong toàn bộ khu vực cả nước, tăng 6,4% so với năm 20188.

Việc đổi mới, cách thức tổ chức, mô hình hoạt động trong DNNN đã đem đến sự gia tăng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế – xã hội; tạo việc làm cho người lao động, hình thành đội ngũ lao động có tay nghề cao và tinh thần lao động sáng tạo có kỷ luật, kỷ cương; tăng thu nhập cho người lao động, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân; tăng nguồn thu ngân sách nhà nước; mở rộng giao thương quốc tế, phát triển thị trường và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế, như: DNNN chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. DNNN còn yếu ở những ngành có ảnh hưởng, quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của DN trên cả nước, trước hết là các ngành công nghệ cao, ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, như: cơ khí, sản xuất chế tạo linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất; công nghệ nguồn… Bên cạnh một số DNNN đã tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác, nhất là các DN nhỏ và vừa tham gia vào các quá trình hay chu trình sản xuất, hiện nay vẫn còn nhiều DNNN, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn đều vận hành theo phương thức khép kín, thực hiện gần như toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất – kinh doanh để tạo thành chuỗi sản xuất khép kín nội bộ, chưa tạo điều kiện để DN khác tham gia. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 rất cần sự hỗ trợ, thúc đẩy của KTNN đối với các thành phần kinh tế khác có những tháo gỡ khó khăn, vượt qua thách thức.

Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Một là, đổi mới, sắp xếp và tổ chức lại một cách triệt để các DNNN ở các ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế.

Tiếp tục thu hẹp DN mà Nhà nước cần duy trì vốn nhà nước tại DN, đẩy mạnh sắp xếp lại khu vực DNNN, trọng tâm là cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Thực hiện nhất quán và triệt để nguyên tắc thị trường trong thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào ngành không phải kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan với ngành kinh doanh chính. DNNN tập trung vào những ngành, lĩnh vực cần thiết cho phát triển kinh tế – xã hội và các DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Song song với quá trình thu hẹp diện DNNN là quá trình tiếp tục thúc đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, để thực hiện được điều này cần:

(1) Tiếp tục phổ biến, quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn hệ thống chính trị và các DNNN. Cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên, chiến lược và không thể trì hoãn”.

(2) Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đang cản trở, làm chậm lại quá trình cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước; đồng thời, hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế quản lý vận hành DNNN phù hợp với cơ chế thị trường.

(3) Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về việc đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán cổ phiếu của DNNN sau cổ phần hóa theo quy định của pháp luật; khẩn trương hoàn thành quyết toán cổ phần hóa và chuyển DN sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần.

Hai là, tăng cường vai trò của DNNN với tư cách là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT đặt các DNNN vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với DN ngoài nhà nước, DN có vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó, thúc đẩy DNNN không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất – kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững của nền kinh tế. Lấy thước đo hiệu quả kinh tế làm kim chỉ nam các để DN nói chung và DNNN nói riêng vận hành. Tiến tới xóa bỏ các rào cản, khác biệt trong hoạt động của DNNN với DN các khu vực kinh tế khác.

Các cơ quan quản lý nhà nước cần hoàn thiện thể chế để các loại hình DN hoạt động trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, dần dần gỡ bỏ sự can thiệp của bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đối với DNNN, từ đó, các DNNN thực sự tự chủ, chỉ hoạt động theo pháp luật và môi trường cạnh tranh với DN của các khu vực kinh tế khác, tạo hiệu ứng tổng thể của nền kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.

Ba là, tăng cường vai trò, vị trí của DNNN với tư cách là bộ phận nòng cốt của KTNN.

Cần đảm trách vị trí của DNNN là góp phần tác động đến việc bảo đảm vai trò chủ đạo của KTNN, thông qua việc tạo lập, dẫn dắt, thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập; làm công cụ khắc phục những thiếu hụt của thị trường; làm công cụ hỗ trợ các chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô trong những trường hợp đặc biệt, như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh,…

Bốn là, tăng cường tính tự chủ của DNNN trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế.

Bảo đảm quyền tự chủ của DNNN trong cơ chế thị trường, hoàn thiện cơ chế đánh giá DNNN. Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tuân thủ đầy đủ kỷ luật và chuẩn mực thị trường trong đầu tư kinh doanh; cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN.  Xác định rõ chi phí cho các hoạt động phi thương mại, mọi khoản chi từ ngân sách nhà nước cho thực hiện các nhiệm vụ phi thương mại của DNNN phải được công bố trong báo cáo tài chính. Tăng cường giám sát các hoạt động phi thương mại để đánh giá và công khai hiệu quả hoạt động này đối với DNNN. Hoàn thiện thể chế quản lý và hoạt động của DNNN theo yêu cầu phát triển của KTTT, áp dụng triệt để nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động đầu tư, huy động vốn đối với DNNN hoạt động kinh doanh. Quán triệt nguyên tắc ràng buộc ngân sách trong mọi hoạt động của DNNN, áp đặt ngân sách cứng để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xác định.

Kết luận

DNNN là bộ phận quan trọng của KTNN trong tổng thể các thành phần kinh tế cấu thành của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Vai trò của DNNN càng trở nên quan trọng hơn khi là bộ phận cấu thành của KTNN với tư cách là một bộ phận của cơ cấu thành phần kinh tế, có vai trò, vị trí quan trọng như các thành phần kinh tế khác, cạnh tranh và hợp tác cùng phát triển. Bên cạnh đó, DNNN là bộ phận cốt lõi, trọng yếu của KTNN giữ vị trí vai trò chủ đạo – đây là vai trò đặc biệt quan trọng có định hướng, dẫn dắt, để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Để tiếp tục tăng cường vai trò của DNNN nói riêng và KTNN nói chung cần thực hiện đồng bộ giải pháp từ nhận thức về vị trí, vai trò cho đến các biện pháp tổng thể và cách tiếp cận riêng đối với hệ thống DNNN, từ đó, xây dựng thành công nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016, tr. 102.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 129.
3, 4, 5, 6, 7. Tổng cục Thống kê. “Sách trắng – Doanh nghiệp Việt Nam 2020”. H. NXB Thống kê, 2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Quang Huy. Sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước”. Tạp chí Tài chính, kỳ 1, tháng 7/2020.
2. Luật Doanh nghiệp năm 2020.
3. Tổng cục Thống kê. Niên giám thống kê. H. NXB Thống kê, 2020.
4. Tổng cục Thống kê. Báo cáo điều tra lao động – việc làm năm 2020. H. NXB Thống kê, 2020.
TS. Vũ Văn Hùng
Trường Đại học Thương mại