(Quanlynhanuoc.vn) – Xác định xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số là cực kỳ quan trọng và cấp thiết nên trong nhiều năm qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong các bộ, ban, ngành và địa phương, trong đó tiếp tục xác định nhiệm vụ trọng tâm thực hiện tổng thể cải cách hành chính nhà nước là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trên các lĩnh vực hoạt động nhằm tăng cường công khai minh bạch, cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp.
Một số vấn đề lý luận về chính quyền điện tử
Chính phủ điện tử/chính quyền điện tử (e-Government) là việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào các hoạt động của chính phủ1, cung cấp các dịch vụ công cộng, thực hiện các hoạt động của chính phủ trên các nền tảng như website. Với tiềm năng của internet, chính phủ điện tử/chính quyền điện tử (CQĐT) sẽ thay đổi một số phương thức, cấu trúc hoạt động của cơ quan chính quyền để tạo ra nhiều cơ hội cho người dân có thể tương tác trực tiếp với Chính phủ cũng như Chính phủ có thể cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho người dân của mình.
Bên cạnh việc tăng cường việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động của cơ quan chính quyền nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan chính quyền đó; đồng thời còn tăng tính công khai, minh bạch thông tin, cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp.
Từ năm 1995 – 2000, CQĐT đã được nhiều nước áp dụng, thúc đẩy phát triển và coi như là một giải pháp hữu hiệu để tăng hiệu quả làm việc của chính quyền. Đến nay, việc xây dựng và phát triển CQĐT là nhiệm vụ bắt buộc của các nước trên thế giới. Thông qua việc xây dựng CQĐT, các hoạt động của cơ quan chính quyền được tăng cường và hiệu quả hơn, tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan chính quyền cũng được tăng lên. Về phía người dân, doanh nghiệp đều được các cơ quan chính quyền cung cấp thông tin chính xác, cung cấp dịch vụ nhanh và thuận tiện hơn qua dịch vụ trực tuyến.
Hiện nay, ở các quốc gia trên thế giới (cũng như ở Việt Nam), CQĐT phát triển qua 4 giai đoạn, bao gồm:
– Giai đoạn 1: Thông tin.
Trong giai đoạn này, CQĐT có nghĩa là hiện diện trên trang web và cung cấp cho công chúng các thông tin thích hợp. Giá trị mang lại ở chỗ công chúng có thể tiếp cận được thông tin của chính quyền, các quy trình thể hiện minh bạch hơn và chất lượng dịch vụ được tốt hơn. Theo đó, sự tương tác giữa chính quyền với chính quyền (G2G) cũng có thể trao đổi thông tin với nhau bằng các phương tiện điện tử, internet hoặc trong mạng nội bộ.
– Giai đoạn 2: Tương tác.
Sự tương tác giữa G2G và công dân (G2C) với doanh nghiệp (G2B) được thông qua nhiều ứng dụng khác nhau. Người dân có quyền được hỏi qua thư điện tử, sử dụng các công cụ tra cứu, tải xuống các biểu mẫu và tài liệu. Các tương tác này giúp tiết kiệm thời gian và tiền của cho người dân. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận đơn thư, kiến nghị có thể thực hiện trực tuyến 24 giờ trong ngày. Giai đoạn này thực hiện được khi chúng ta tiến hành cải cách hành chính theo cơ chế một cửa điện tử, cơ chế một cửa liên thông điện tử.
– Giai đoạn 3: Giao dịch.
Ở giai đoạn này, tính phức tạp của công nghệ tăng lên nhưng sự tương tác (G2C và G2B) cũng tăng. Các giao dịch hoàn chỉnh có thể thực hiện tại chỗ mà không cần đi đến cơ quan hành chính. Mở rộng các dịch vụ trực tuyến mức độ 3 và 4. Tính phức tạp tăng lên ở giai đoạn này là bởi các vấn đề an ninh và cá thể hóa (chẳng hạn như chữ ký số/chữ ký điện tử là cần thiết để cho phép thực hiện việc chuyển giao các dịch vụ một cách hợp pháp). Qua CQĐT, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ các ứng dụng mua bán trực tuyến. Do vậy, các quy trình nội bộ (G2G) phải được thiết kế lại để cung cấp dịch vụ được tốt. Theo đó, chính quyền cần có những quy định pháp luật để cho phép thực hiện các giao dịch không sử dụng tài liệu bằng giấy.
Giai đoạn 4: Chuyển hóa.
Đây là giai đoạn được thể hiện khi mọi hệ thống thông tin được tích hợp hoàn toàn, các dịch vụ điện tử không còn bị giới hạn bởi các ranh giới hành chính. Khi đó người dân có thể hưởng các dịch vụ G2C và G2B tại một bàn giao dịch (điểm giao dịch ảo). Ở giai đoạn này, tiết kiệm chi phí, hiệu quả và đáp ứng nhu cầu khách hàng đã đạt được các mức cao nhất có thể được.
Như vậy, các giai đoạn phát triển của CQĐT đã làm cho mối quan hệ tác động qua lại giữa người dân, doanh nghiệp, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các cơ quan chính quyền trở nên thuận tiện hơn, minh bạch, tiết kiệm chi phí và hiệu quả hơn. Đây cũng được coi là công cụ quan trọng, hỗ trợ đắc lực cho quá trình đẩy mạnh phát triển chính phủ điện tử của Việt Nam, hướng tới phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Đánh giá thực trạng xây dựng và thực hiện chính quyền điện tử ở Việt Nam thời gian qua
Những kết quả đạt được
Ngày 07/3/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến 2025, trong đó đã giao 83 nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, cơ quan. Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP; đồng thời, xây dựng các kế hoạch triển khai ứng dụng CNTT từ trung ương đến tỉnh, thành phố trên cả nước, phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng, qua đó, bước đầu đạt một số kết quả khả quan.
Hiện tại, 63/63 tỉnh, thành phố và 19/30 bộ, ngành đã công khai tiến độ xử lý hồ sơ trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ2. Văn phòng Chính phủ cũng công khai việc xử lý văn bản của lãnh đạo Văn phòng Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ. Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến, trong tổng số 83 dịch vụ công trực tuyến giao cho 20 bộ, ngành, đến nay, các bộ, ngành đã triển khai thực hiện 78/83 dịch vụ công trực tuyến; trong tổng số 44 dịch vụ công trực tuyến giao cho các địa phương, đến nay có 32/63 địa phương đã triển khai thực hiện…3. Đặc biệt, hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử/CPĐT cũng đã dần được thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính chất nền tảng thông tin như: cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm; cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia đang được xây dựng và đã có những cấu phần đi vào vận hành. Các cơ quan chính quyền đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân, như: đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội… Một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng.
Tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, dần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức cũng như chất lượng và hiệu quả hoạt động của việc xây dựng CPĐT tại các địa phương này. Điển hình như:
(1) Thành phố Đà Nẵng – địa phương đầu tiên thực hiện triển khai chính quyền địa phương từ năm 2010. Năm 2014, thành phố chính thức đưa vào ứng dụng Hệ thống thông tin CPĐT; đồng thời, triển khai nhiều các ứng dụng dùng chung, ứng dụng chuyên ngành và xây dựng hệ thống các cơ sở dữ liệu phục vụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố. Đến nay, hệ thống quản lý văn bản và điều hành (với 215 cơ quan sử dụng); hệ thống thư điện tử (100% cán bộ, công chức, viên chức sử dụng), hệ thống một cửa điện tử (100% cơ quan các cấp), hệ thống quản lý cán bộ, công chức, viên chức… Thành phố đã triển khai chữ ký số và ký gửi văn bản liên thông điện tử. Hiện có gần 1.600 chữ ký số cá nhân và chữ ký số cơ quan (đạt xấp xỉ 100% công chức cấp phó trưởng phòng trở lên được cấp sử dụng) để ký và gửi nhận văn bản điện tử trên Hệ thống quản lý văn bản và điều hành; đã có 572 dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4 trong các lĩnh vực (thành phố có 1.292 thủ tục hành chính, chiếm gần 45% trong tổng số thủ tục hành chính); hiện nay trung bình mỗi tháng có gần 40.000 hồ sơ trực tuyến được xử lý (chiếm gần 12% trong tổng số hồ sơ)4.
(2) TP. Hồ Chí Minh là đơn vị thứ 2 triển khai thực hiện từ năm 2011, hiện nay, Thành phố đang nỗ lực xây dựng CPĐT, tập trung ứng dụng công nghệ thông tin, tạo chuyển biến ngay trong chính nội bộ các cơ quan nhà nước cũng như trong việc cung cấp dịch vụ công tới người dân, doanh nghiệp theo hướng: “Lấy người dân làm trung tâm phục vụ”. Chính vì vậy, với chủ đề năm 2019 về đột phá cải cách hành chính, thành phố đã có bước đột phá nhất định trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến và một cửa điện tử, kết quả đã cung cấp 1.070 dịch vụ công trực tuyến (mức độ 3: 826 dịch vụ; mức độ 4: 244 dịch vụ). Các sở, ban, ngành, UBND quận, huyện đã triển khai hệ thống một cửa điện tử, ISO điện tử giúp lãnh đạo hoàn toàn có thể giám sát được tình trạng xử lý hồ sơ của đơn vị, biết được nguyên nhân trễ hạn thông qua báo cáo tổng hợp tự động qua phần mềm và tin nhắn. Thành phố cũng đã triển khai hệ thống một cửa điện tử quản lý hồ sơ đất đai tại Trung tâm dữ liệu của TP. Hồ Chí Minh5.
(3) Tỉnh Quảng Ninh là địa phương thứ ba (bắt đầu từ năm 2012) và cũng là địa phương đầu tiên triển khai đề án theo Kiến trúc CPĐT căn cứ trên phiên bản dự thảo 2.0. Hiện tỉnh đã triển khai sử dụng chứng thư số rộng rãi; liên thông quản lý văn bản tới 100% các cơ quan Đảng, cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp các cấp trên địa bàn tỉnh và đứng top đầu Việt Nam trong việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giải quyết thủ tục hành chính và luân chuyển văn bản điện tử 4 cấp. Đã có hơn 1.500 dịch vụ công trực tuyến, trên 600 ngàn hồ sơ được giải quyết mỗi năm, giúp tiết kiệm chi phí xã hội trung bình khoảng 70 tỷ đồng/năm. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu một cửa điện tử được triển khai giúp Quảng Ninh minh bạch hóa quá trình giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan quản lý nhà nước cho người dân, doanh nghiệp, cho phép người dân tham gia giám sát việc thực thi nhiệm vụ của cơ quan nhà nước. Đặc biệt, hệ thống giúp giảm tới 40% thời gian và giảm số lần phải đi lại tối thiểu 1 lần/giao dịch của người dân và các tổ chức, doanh nghiệp. Nhiều lợi ích rất được người dân hoan nghênh, như kê khai và nộp hồ sơ trực tuyến ngay tại nhà; đặt lịch hẹn trước qua mạng; hồ sơ được xử lý tập trung, tại chỗ với thủ tục đơn giản, thuận tiện…6.
Nhìn chung, việc các địa phương tập trung tăng cường khả năng kết nối liên thông các hệ thống thông tin trên quy mô rộng đã góp phần phục vụ người dân, doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi; tăng khả năng cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao cho người dân và doanh nghiệp trên nền tảng dữ liệu, thông tin tin cậy, được chia sẻ trên diện rộng giữa các cơ quan nhà nước; bảo đảm tính kế thừa thông tin, dữ liệu, hạ tầng, các hệ thống thông tin hiện có, chuyển tiếp, linh hoạt, phù hợp theo điều kiện thực tế; tăng khả năng giám sát, đánh giá đầu tư; bảo đảm triển khai ứng dụng và phát triển CNTT đồng bộ; xác định rõ thành phần, tiêu chuẩn, yêu cầu kỹ thuật nhằm giảm đầu tư trùng lặp, tiết kiệm chi phí, thời gian thực hiện; xác định lộ trình, trách nhiệm triển khai của các cơ quan.
Những khó khăn, bất cập trong triển khai
Hiện nay, trong quá trình thực hiện triển khai còn gặp một số khó khăn, như hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT hướng tới xây dựng chính quyền điện tử còn chậm, chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu thực tế đặt ra. Hệ thống thông tin tổng thể của các địa phương còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu kết nối liên thông giữa các cơ quan nhà nước của tỉnh, thành phố và giữa tỉnh, thành phố với trung ương. Tiến độ triển khai một số nội dung, dự án quan trọng còn chậm, chồng chéo. Ứng dụng CNTT tại nhiều cơ quan, đơn vị chưa tuân thủ đầy đủ yêu cầu kỹ thuật về kết nối liên thông chia sẻ dữ liệu theo quy định. Tỷ lệ văn bản điện tử được gửi nhận thay thế văn bản giấy còn thấp. Giao dịch điện tử với tổ chức, công dân còn ở mức độ khiêm tốn. Trong đó, cụ thể là:
(1) Việc ứng dụng CNTT, liên thông điện tử đến cấp huyện còn chậm, nhất là ở cấp xã – cấp hành chính gần dân nhất và có số đông người dân đến làm thủ tục chứng thực, sao y giấy tờ nhưng hiện chưa ứng dụng phần mềm nào trong công tác quản lý và bản thân người sử dụng dịch vụ công trực tuyến cũng có hạn chế. Đa số người dân vẫn chưa rõ những thủ tục hành chính nào thuộc cấp nào giải quyết và việc luân chuyển giải quyết hồ sơ còn vòng vèo, kéo dài, dễ xảy ra thất lạc, mặc dù các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đã được phát thư mời họp dưới dạng điện tử qua email của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
(2) Về phía cán bộ, công chức thực hiện áp dụng được thành thạo các phần mềm hữu ích trong quá trình quản lý, làm việc mới chiếm số lượng ít, đa số chỉ dùng máy vi tính để in ấn, soạn thảo văn bản trình ký cấp trên nhưng giải quyết việc chứng thực, công chứng chủ yếu trên giấy tờ. Mặc dù nhiều xã, phường đã có mạng LAN và kết nối internet, tại các cơ quan ở địa phương đã làm việc, trao đổi qua thư điện tử nhưng ở cấp xã, phần lớn mọi công văn, giấy tờ vẫn gửi qua đường bưu điện. Điều này cho thấy khó khăn lớn nhất trong ứng dụng CNTT là do nguyên nhân trình độ tin học, sử dụng các phương tiện máy móc hiện đại của cán bộ, công chức cấp xã còn thấp.
Một số giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trên các lĩnh vực
Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục khó khăn, hạn chế, đáp ứng yêu cầu phát triển trong quá trình hội nhập và phát triển, các địa phương cần tập trung triển khai xây dựng CPĐT cho các giai đoạn tiếp theo nhằm tạo bước đột phá trong hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước, như sau:
Thứ nhất, cần tập trung xây dựng hệ thống nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của chính quyền địa phương làm nền tảng trao đổi thông tin giữa các ứng dụng, cơ sở dữ liệu trong tỉnh; đồng thời, kết nối với hệ thống nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, chia sẻ thông tin, giảm thời gian, chi phí thực hiện dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp; nâng cao khả năng truy cập, khai thác, sử dụng thông tin cho cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện các hệ thống hỗ trợ G2C, tiến đến 100% văn bản, hồ sơ trao đổi giữa các cơ quan nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử. Hệ thống quản lý điều hành điện tử trong các cơ quan chính quyền địa phương cần thống nhất từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp xã và được xác định là trung tâm. Trong đó, cần đẩy mạnh triển khai ứng dụng hệ thống phần mềm quản lý văn bản, điều hành và tác nghiệp; tăng cường sử dụng các văn bản điện tử tại chính quyền các cấp để hoàn thiện hệ thống ứng dụng văn phòng điện tử. Đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống G2B, G2C theo hướng thông minh, trong đó sẽ xây dựng hệ thống liên thông điện tử và người dân chỉ cần đến phường, xã, thị trấn đặt yêu cầu, thủ tục hành chính sẽ liên thông chuyển lên cấp quận, huyện, sở, ngành để giải quyết.
Thời gian tới, đối với cấp huyện, cần xây dựng các phần mềm hỗ trợ người dân sử dụng điện thoại thông minh theo dõi quá trình giải quyết hồ sơ dịch vụ hành chính công; đồng thời, xây dựng và nâng cấp 100% các dịch vụ công trực tuyến từ cấp độ 3 lên cấp độ 4. Trong đó, xây dựng dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đối với thủ tục cấp phép xây dựng qua mạng, quản lý xử phạt vi phạm hành chính và quản lý cấp giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc triển khai các ứng dụng CNTT hỗ trợ hoạt động quản lý, điều hành, từng bước hình thành các ứng dụng trên điện thoại thông minh, nhất là đối với người dân sử dụng điện thoại thông minh. Hệ thống được xây dựng với giao diện thân thiện, với nhiều tính năng đáp ứng yêu cầu tổ chức, thực hiện, theo dõi, giám sát, đôn đốc thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan chính quyền địa phương.
Thứ ba, tiếp tục nâng cấp hệ thống hạ tầng CNTT dùng chung trong các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm việc lưu trữ, chia sẻ thông tin được tập trung, tối ưu, nhanh chóng; việc truyền tải dữ liệu được bảo đảm an toàn giữa cán bộ, công chức và các cơ quan, đơn vị.
Thứ tư, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến của các cơ quan nhà nước ở địa phương. Triển khai đồng bộ, hiệu quả hệ thống một cửa điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã. Hệ thống bảo đảm đáp ứng đầy đủ các tính năng, chức năng kỹ thuật theo yêu cầu của Chính phủ. Hệ thống kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu với các cơ sở dữ liệu dùng chung và ứng dụng khác bảo đảm việc sử dụng thống nhất một ứng dụng trong giải quyết thủ tục hành chính tại các cơ quan nhà nước.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ và các kỹ năng tin học, trong đó chú trọng đào tạo các kỹ năng cần thiết cho cán bộ, công chức, viên chức để sử dụng, khai thác hiệu quả các ứng dụng CPĐT. Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực đủ số lượng và chất lượng để vận hành các hệ thống CNTT, trên cơ sở đó, nghiên cứu ban hành chính sách ưu đãi nhân lực CNTT để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
Việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý nhà nước đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các địa phương, từ việc cải thiện chất lượng, hiệu quả công tác cải cách hành chính đến năng lực cạnh tranh của các địa phương thông qua việc phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn.
Những kết quả bước đầu trong xây dựng CPĐT thời gian qua chính là cơ sở, động lực quan trọng để các cấp chính quyền địa phương tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp, góp phần xây dựng thành công CPĐT theo Nghị quyết số 17/2019/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ.