Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, công chức

(Quanlynhanuoc.vn) – Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ, công chức chính là khả năng về mặt tư duy lý luận hay tư duy khoa học để đội ngũ này có thể hoàn thành các nhiệm vụ với vai trò lãnh đạo, quản lý hoặc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong hoạt động thực thi công vụ. Chính vì vậy, các vấn đề về đào tạo, bồi dưỡng và phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ, công chức là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài.
Ảnh minh họa (internet).
Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Trong suốt chiều dài cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ, công chức (CBCC). Đã có nhiều hội nghị trung ương trực tiếp bàn về công tác ĐTBD cán bộ. Đại hội VI (tháng 12/1986) là một bước đột phá trong công tác cán bộ nói chung và công tác ĐTBD cán bộ nói riêng. Đại hội đã xác định: “Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tuân theo một quy trình chặt chẽ. Đó là kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức ở các trường học với rèn luyện trong thực tiễn”1, “Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát, mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu”2. Đảng ta không những xác định chủ trương ĐTBD cán bộ mà còn trực tiếp “chú tâm” đến việc kiện toàn hệ thống các trường ĐTBD cán bộ, cũng như nội dung và phương pháp đào tạo hướng tới việc chuẩn hóa công tác đào tạo cán bộ theo tinh thần đổi mới.

Thông qua Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta chủ trương: “Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch. Đào tạo gắn với tiêu chuẩn từng chức danh và yêu cầu sử dụng cán bộ. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học. Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo cán bộ đảng”3. Tiếp đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng khẳng định: “Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp”4. Có thể nói, xuất phát từ chính việc ĐTBD cán bộ đã có những bước nhảy vọt về chất và lượng làm tiền đề tiên quyết giúp Đảng và Nhân dân ta thu được nhiều thắng lợi. Đồng thời khẳng định, đến nay, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu được nhiều thành quả to lớn trên các lĩnh vực, làm tiền đề cho đất nước ta hướng tới thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Sau hơn hai thập kỷ thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đội ngũ cán bộ các cấp ở nước ta có bước phát triển, trưởng thành về mọi mặt, chất lượng CBCC ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải nhìn nhận và khắc phục. Nếu nhìn một cách tổng thể, đội ngũ CBCC đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Đất nước vẫn còn thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó, năng lực của đội ngũ CBCC chưa đồng đều, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao chưa có tác phong làm việc chuyên nghiệp, làm việc chưa đúng chuyên môn, sở trường, vì thế chưa đáp ứng được yêu cầu công việc đặt ra; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn tồn tại rất nhiều hạn chế.

Đối với cán bộ trẻ, có tình trạng thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện, ngại khó, ngại khổ. Một bộ phận không nhỏ CBCC có tình trạng phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Ngoài ra, công tác cán bộ còn tồn đọng nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện nhiều nội dung còn mang tính hình thức. Công tác ĐTBD CBCC chậm được đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Những đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng, nhiệm vụ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu…

Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới và khu vực vẫn có chiều hướng diễn biến phức tạp, khó lường. Sự bùng nổ của khoa học – công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng quốc tế hóa nguồn nhân lực là thời cơ, nhưng đồng thời cũng là thách thức đối với nước ta. Sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Ngoài ra, giai đoạn tới được xem là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp CBCC sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau. Bối cảnh này có sự tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.

Bắt nguồn từ yêu cầu mới của thực tiễn, ngày 19/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) đã ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Nội dung của Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ CBCC là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững. Xây dựng đội ngũ CBCC được xem là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhưng trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt; phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và cơ quan báo chí, truyền thông trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ CBCC. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, phải thực sự dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ CBCC.

Với mục tiêu tiếp tục thực hiện tốt công tác ĐTBD CBCC nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Trước hết, cần nghiên cứu và quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về công tác ĐTBD CBCC, mà đặc biệt là cần xây dựng kế hoạch ĐTBD phù hợp với từng chức danh, vị trí. Gắn việc quy hoạch với ĐTBD theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau.

Kế hoạch trên được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn về mặt kiến thức đã đề ra cho từng loại chức danh cán bộ trong từng tổ chức, tuy nhiên phải có tính hiện thực, xuất phát từ điều kiện khách quan. Từ mục tiêu đã định trong kế hoạch và căn cứ vào thực trạng đối tượng cán bộ đã lựa chọn để đặt ra yêu cầu đối với từng cán bộ cho phù hợp trong từng giai đoạn nhất định (ai học gì, học ở đâu, bao giờ học, hình thức đi học, thời gian đi học…). Sau khi xác định được những cán bộ nằm trong kế hoạch ĐTBD, phải thống kê tổng hợp để nắm được số cán bộ cần được ĐTBD về từng mặt kiến thức, văn hóa, lý luận chính trị, kinh tế, kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ.

Thứ hai, ngoài việc xây dựng kế hoạch ĐTBD CBCC của tổ chức, đơn vị mình, người làm công tác cán bộ còn phải nắm được quan điểm, chủ trương, kế hoạch ĐTBD cán bộ của Đảng, Nhà nước để từ đó có kế hoạch cụ thể hơn trong công tác này, cán bộ nào cần được đi đào tạo một cách có hệ thống, chính quy; cán bộ nào cần đi bồi dưỡng các lớp ngắn hạn, các lớp tại chức, các lớp tập trung; ai cần được đi đào tạo trước, ai sau… Tất cả các kế hoạch này vừa phải thể hiện thành con số và danh sách cụ thể. Điều quan trọng trong kế hoạch ĐTBD cán bộ không chỉ nêu ra được yêu cầu mà phải có biện pháp tích cực để thực hiện yêu cầu đó.

Tận dụng những điều kiện sẵn có của địa phương, của ngành để có thể chủ động, tích cực hơn trong việc thực hiện kế hoạch ĐTBD cán bộ (như chủ động, tích cực trong việc mở lớp). Đồng thời cùng với ban lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất về vật chất, tinh thần, thời gian cho các cán bộ được đưa đi ĐTBD. Xây dựng chương trình quốc gia về ĐTBD cán bộ và học tập ngoại ngữ. Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.

Thứ ba, công tác ĐTBD cán bộ là một khâu trong công tác cán bộ nên có liên quan mật thiết với các khâu khác, như: đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; bố trí, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ. Do vậy, công tác đào tạo cán bộ không chỉ thực hiện ở khía cạnh lý luận mà còn bồi dưỡng năng lực thực tiễn cho cán bộ, như: luân chuyển cán bộ, cử đi nghiên cứu thực tiễn, tham quan học hỏi kinh nghiệm, kế hoạch kèm cặp…, để có thể gắn liền công tác đào tạo với việc bố trí sử dụng cán bộ. Cần thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào đối với công chức, viên chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù, vùng, khu vực.

Về phát triển năng lực tư duy lý luận

Ở Việt Nam, trong các thời kỳ cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên hàng đầu và giữ một vai trò hết sức trọng yếu. Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có đường lối chính trị đúng đắn. Nhưng để xây dựng được đường lối chính trị đúng đắn và làm cho đường lối đó trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết phải có đội ngũ CBCC vững vàng về lập trường tư tưởng chính trị, trong sạch về phẩm chất, đạo đức lối sống, nhưng đặc biệt quan trọng là có đủ năng lực về tư duy, trí tuệ nhất là năng lực TDLL đủ sức thực hiện nhiệm vụ hoạch định đường lối và tổ chức triển khai thực hiện đường lối ấy trong thực tiễn cách mạng.

Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn chăm lo, xây dựng đội ngũ CBCC gắn với giải quyết nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng. Việc hình thành, phát triển và hoàn thiện các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo đổi mới cán bộ và công tác cán bộ của Đảng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay là quá trình liên tục, nhất quán và có tính hệ thống. Nội dung quan điểm và nguyên tắc cơ bản chỉ đạo đổi mới công tác cán bộ là một trong những thành tựu quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện của Đảng và là cơ sở cho việc hình thành chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với đội ngũ CBCC, mọi chủ trương, quan điểm đều hướng vào mục tiêu xây dựng, nâng cao chất lượng, coi trọng phẩm chất, đạo đức và trình độ năng lực chuyên môn, trong đó đặc biệt nhấn mạnh lực lượng CBCC lãnh đạo, quản lý và năng lực TDLL của đội ngũ này.

Tại Đại hội XII, Đảng ta xác định: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao… Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”5. Và, để khắc phục tình trạng trên, một trong những nhiệm vụ trước mắt là: “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”6. Cũng theo quan điểm này, Đại hội XIII khẳng định: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”7.

Năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ chính là khả năng, là nhân tố chủ quan về mặt TDLL hay tư duy khoa học để đội ngũ này hoàn thành các nhiệm vụ với vai trò lãnh đạo, chịu trách nhiệm chính của tổ chức. Năng lực tư duy khoa học là khả năng phản ánh ý thức ở trình độ cao, nhận thức bản chất, tính quy luật của đối tượng; là năng lực suy nghĩ, vận dụng các khái niệm, phạm trù theo những nguyên tắc lôgíc chặt chẽ nhất định nhằm đạt tới chân lý; là năng lực tìm tòi, sáng tạo, để phát triển trí thức mới từ những tri thức đã có; là năng lực chuyển hóa từ tri thức sang hành động để làm cho sự sáng tạo của tư duy trở thành sự sáng tạo trong thực tiễn… Với những đặc trưng của TDLL như vậy, rõ ràng đối với đất nước ta hiện nay, để  có thể đảm đương và làm tròn trọng trách tổ chức, hướng dẫn quần chúng thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới người CBCC phải có năng lực TDLL. Họ phải có sự sáng suốt, minh mẫn trong nhận thức, sự hiểu biết về chính trị, xã hội, có khả năng sáng tạo; kế thừa và phát huy trí tuệ xã hội, tiêu biểu là tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa của loài người mà đỉnh cao là học thuyết Mác – Lênin để vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện đất nước.

Nói một cách tổng quát nhất, năng lực TDLL của đội ngũ CBCC được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, trình độ học vấn, thể hiện sự thông thạo về chuyên môn, nghiệp vụ ở lĩnh vực cụ thể mà mình đảm nhiệm. Những kiến thức về khoa học, kỹ thuật, quản lý sản xuất – kinh doanh, những kiến thức về lý luận chính trị… Ngoài kiến thức chuyên môn (được ghi nhận trong bằng cấp và được đánh giá trực tiếp qua công việc mà họ đảm nhiệm), người cán bộ, với tư cách là người quản lý, lãnh đạo cần có kiến thức liên ngành, đặc biệt là những ngành gần và có liên quan đến lĩnh vực chuyên sâu.

Hai là, sự am hiểu thực tế, khả năng nắm bắt và giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra. Gắn lý luận với thực tiễn, gắn chính vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ của mình với sự vận động thay đổi không ngừng của thực tiễn, người cán bộ sẽ nhận trọng trách ký kết và định hướng để cùng tập thể hoàn thành đơn đặt hàng của thực tiễn, sửa chữa những khuyết điểm trong dây chuyền, phát huy thế mạnh vốn có của đơn vị.

Ba là, khả năng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tiễn; khả năng tiếp thu và cụ thể các nghị quyết của Đảng vào lĩnh vực do mình lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nền tảng lập trường chính trị và định hướng hoạt động đối với cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt.

Bốn là, sự nhận thức nhạy bén và chính xác các quy luật của xã hội và quy luật kinh tế, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị. Từ đó, với cương vị của mình góp phần hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội phù hợp, thực tế và khả thi.

Từ những nội dung cơ bản của TDLL đã được xác định, việc phát triển năng lực TDLL cần được triển khai ở các khía cạnh sau:

(1) Phát triển năng lực phát hiện mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng và khái quát hóa tri thức: quán triệt và tuân thủ một cách tự giác nguyên tắc toàn diện, bản thân các đối tượng mà TDLL hướng tới không tồn tại cô lập, tách rời, mà trong những mối liên hệ hữu cơ với nhau. Việc quán triệt, tuân thủ nguyên tắc toàn diện giúp chủ thể tư duy nhìn nhận, đánh giá đối tượng một cách chính xác, đầy đủ, toàn vẹn, chỉnh thể, hệ thống. Điều này sẽ giúp TDLL hội tụ dược các hiện tượng, bộ phận đơn lẻ để đi tới cái chung, cái có tính quy luật và hình thành mục đích rõ ràng cũng như con đường đạt mục đích. Khi TDLL không bao quát được tình hình, diễn biến của công việc lãnh đạo, quản lý sẽ không thể giúp chủ thể tư duy định ra cách thức giải quyết những thách thức đặt ra trong thực tiễn để hoàn thành mục tiêu đã định. Thiếu tính bao quát, TDLL sẽ sa vào manh mún, rời rạc, chắp vá. Do vậy, bao quát được tình hình, diễn biến của công việc lãnh đạo, quản lý chính là một trong những yêu cầu cơ bản của năng lực TDLL.

(2) Phát triển năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn. Để phát triển năng lực này, phải triển khai rất nhiều biện pháp nhưng những hướng sau đây phải được ưu tiên, một là, thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ một cách hiệu quả; công tác quy hoạch, luân chuyển CBCC cần được đẩy mạnh, thường xuyên và liên tục để kiểm tra năng lực đội ngũ này; đồng thời, khắc phục tình trạng khép kín, thụ động, hẫng hụt trong công tác cán bộ; hai là, yêu cầu đồng thời tạo cơ hội, điều kiện để CBCC luôn quán triệt và có thói quen gắn, vận dụng lý luận với thực tiễn công việc, nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, coi đây là một yêu cầu cấp bách đối với CBCC hiện nay. Hoạt động tổng kết thực tiễn sẽ là phương thức hữu hiệu rèn luyện và nâng cao năng lực TDLL của họ.

(3) Phát triển năng lực hình thành tri thức mới: tạo bước chuyển biến tích cực về đời sống vật chất, văn hóa, nâng cao trình độ; thường xuyên học tập, nghiên cứu tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trau dồi phẩm chất, rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác ĐTBD CBCC; đổi mới nội dung, phương pháp, chương trình ĐTBD, nâng cao kỹ năng tư duy logic và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn; rèn luyện năng lực tổng kết thực tiễn và đổi mới phương pháp tổng kết thực tiễn; gắn lý luận với thực tiễn; thực hiện dân chủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành.

Kết luận

Hoạt động của đội ngũ CBCC đặc biệt là những người đang nắm giữ cương vị lãnh đạo, quản lý, bao gồm các hoạt động hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện, kiểm tra quá trình hiện thực hóa các chủ trương, đường lối, chính sách đó vào cuộc sống.

Hoạt động phức tạp và quan trọng này đòi hỏi người CBCC có một trình độ TDLL đủ mức, tức phải có năng lực TDLL. Chính vì vậy, công tác ĐTBD phải được tổ chức, triển khai theo hướng phát triển năng lực TDLL và cần được thể hiện trên cả 2 cấp độ tư duy: tư duy chính xác (tư duy lôgíc hay tư duy hình thức) và tư duy sáng tạo (tư duy biện chứng).

Chú thích:
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Sự thật, 1987, tr. 134.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII. H. NXB Sự thật, 1994, tr. 62.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H. NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 142.
5, 6. Văn phòng Trung ương Đảng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 192 – 193, 20.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 181 – 182.
Tài liệu tham khảo:
1. Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay. H. NXB Chính trị quốc gia, 2009.
2. Hồ Bá Thâm. Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay. H. NXB Chính trị quốc gia, 1995.
3. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm. Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. H. NXB Chính trị quốc gia, 2001.
4. Hồ Kiếm Việt. Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia, 2004.
PGS.TS. Trương Quốc Chính
Học viện Chính trị khu vực I
Nguyễn Văn Sơn
NCS, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội