Xây dựng và phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số tại các tỉnh, thành phố hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Hiện nay, trên địa bàn cả nước, các tỉnh, thành phố đã và đang đẩy mạnh thực hiện xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số, đô thị thông minh… từ đó, đã có những chuyển biến tích cực,“thay da, đổi thịt” nhanh chóng cả về đời sống tinh thần và kinh tế – xã hội đối với chính quyền cũng như người dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra thì các địa phương cần phải có nhiều ưu tiên hơn nữa cho tiến trình chuyển đổi số trong thời kỳ mới.
Xây dựng và phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số tại các tỉnh, thành phố hiện nay là nhu cầu tất yếu.
Vai trò của chính quyền điện tử, chính quyền số

Thực hiện Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử. Chính phủ đang rất quyết tâm thực hiện các chủ trương, biện pháp để nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó, xây dựng chính quyền điện tử (CQĐT), chính quyền số (CQS) là một trong những mục tiêu để đẩy mạnh việc hiện đại hóa nền hành chính. CQĐT, CQS là chính quyền ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông nhằm tăng hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và các tổ chức, doanh nghiệp một cách tốt hơn.

Những lợi ích căn bản mà CQĐT, CQS mang lại, đó là:

Thứ nhất, làm tăng hiệu quả làm việc của các cơ quan và chính quyền các cấp; tăng tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước (QLNN).

Thứ hai, người dân và doanh nghiệp được các cơ quan QLNN cung cấp thông tin, cung cấp dịch vụ nhanh hơn, thuận tiện hơn thông qua các dịch vụ công trực tuyến, hạn chế tối đa doanh nghiệp và người dân phải trực tiếp đến các cơ quan chính quyền khi thực hiện các thủ tục hành chính.

Thứ ba, thông qua hệ thống được số hóa, các ý kiến góp ý, phản hồi của người dân, doanh nghiệp tới các cơ quan QLNN tiếp tục hoàn thiện nhanh hơn so với trước đây chủ yếu nhận đơn thư, giấy tờ truyền thống, từ đó, công tác tổ chức, các quy trình nghiệp vụ,… được nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan QLNN. Tiết kiệm thời gian và chi phí trong thực hiện nhiệm vụ.

Thứ tư, hệ thống một cửa điện tử hiện đại, đồng bộ được triển khai từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cấp xã. Cổng dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, tiết kiệm thời gian, chi phí, công khai, minh bạch.

Thứ năm, hệ thống phần mềm Quản lý văn bản và Hồ sơ công việc (TD-Office) được triển khai đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã, phục vụ điều hành, xử lý công việc trên môi trường điện tử.

Thứ sáu, hệ thống hội nghị trực tuyến được triển khai tại các điểm cầu đang phát huy hiệu quả, nhất là trong tình hình sau đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, lâu dài như hiện nay. Bên cạnh đó, hệ thống phòng họp không giấy (Ecabinet) tại các sở, ban, ngành, huyện, xã cũng dần được triển khai tại một số địa phương các tỉnh, thành phố, như: Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Phước…

Và, một điểm đặc biệt mà CQĐT, CQS đem lại đó là nó có sự gắn kết chặt chẽ với xây dựng và phát triển đô thị thông minh. Để bảo đảm xây dựng và phát triển đô thị thông minh thành công, các tỉnh, thành phố hiện nay cần một nền tảng dữ liệu mở, mà ở đó bất kỳ dữ liệu nào được tạo ra, lưu trữ, thu thập và phát hành bởi Nhà nước, chính quyền các địa phương, các tổ chức xã hội, các công ty… trong các hoạt động của chính quyền hoặc liên quan đến các quyết định đưa ra của chính quyền đều có giá trị sử dụng và chia sẻ cho các thành phần khác hoặc cộng đồng sử dụng (dữ liệu mở). Dữ liệu có thể bao gồm những thông tin địa lý, môi trường, giao thông, sức khoẻ cộng đồng, giáo dục, những thống kê định kỳ, những thư mục, các danh sách, các số liệu về ngân sách đầu tư, chi tiêu… Dữ liệu mở được CQĐT, CQS hay đô thị thông minh sử dụng sẽ giúp công khai thông tin, minh bạch thông tin giữa hoạt động của cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp.

Sự khác biệt giữa dữ liệu mở với các trang thông tin điện tử ở đây chính là “số liệu gốc” và các công cụ để xử lý dữ liệu đó. Từ đó, mở ra hai chiều tương tác, chiều thứ nhất là sự minh bạch tham gia hợp tác giữa Chính phủ, tổ chức, doanh nghiệp, người dân; đồng thời, ở chiều ngược lại người dân cũng tham gia phản biện với hiệu quả hoạt động của các cơ quan QLNN. Thông qua sự đánh giá của người dùng thì các ứng dụng hệ sinh thái cơ sở dữ liệu mở càng cạnh tranh với nhau và ngày càng tạo ra nhiều ứng dụng hay hơn phục vụ nhu cầu dịch vụ tiện ích của đô thị thông minh cho con người, như: du lịch thông minh, giao thông thông minh, y tế thông minh, giáo dục thông minh…

Thực trạng xây dựng và phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số ở một số tỉnh, thành phố hiện nay

– Tỉnh Bình Phước: Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành văn bản chỉ đạo, triển khai Chính quyền chuyển đổi số (CĐS), như Nghị quyết của Tỉnh ủy về CĐS; Kế hoạch của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy về CĐS; ban hành kiến trúc CQĐT tỉnh, Kiến trúc ICT phát triển địa phương thông minh… Kết quả cho thấy, về hạ tầng kỹ thuật, tất cả các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã được trang bị mạng LAN kết nối Internet để triển khai ứng dụng phục vụ công việc; 100% cán bộ, công chức được trang bị máy tính phục vụ công tác chuyên môn.

Với quyết tâm, tạo bước đột phá về CĐS, tỉnh Bình Phước xác định rõ năm 2022 là thời gian tạo bước đột phá về CĐS của tỉnh trên các lĩnh vực: Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, do đó từng phần việc thực hiện đến đâu, hiệu quả đến đó, phải gắn kết chặt chẽ giữa ứng dụng công nghệ thông tin và CĐS, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện để có phương án thực hiện CĐS hiệu quả, thực chất.

UBND tỉnh giao Sở Thông tin và Truyền thông triển khai các nền tảng toàn quốc, gồm các nền tảng: Điện toán đám mây; địa chỉ số; tích hợp, chia sẻ dữ liệu; tổng hợp, phân tích dữ liệu; họp trực tuyến thế hệ mới cho cơ quan nhà nước; học trực tuyến mở đại trà (MOOCs); khảo sát, thu thập ý kiến người dân; trí tuệ nhân tạo; thiết bị IoT; mạng xã hội thế hệ mới; sàn thương mại điện tử; trung tâm giám sát điều hành thông minh (IOC); trung tâm giám sát điều hành an toàn thông tin mạng (SOC); trợ lý ảo; tối ưu hóa chuỗi cung ứng; quản trị tổng thể.

Thời gian qua, công tác CĐS trên địa bàn tỉnh đã được các cấp, các ngành quan tâm, chỉ số CĐS của tỉnh có sự chuyển biến tích cực. Hiện xếp hạng 25/63 tỉnh, thành phố, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Bộ (sau TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai), thứ 6 trong các tỉnh phía Nam về chỉ số CĐS cấp tỉnh.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Phước, số lượng dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 3, mức độ 4 tăng cao với 1.645 dịch vụ chiếm 87,55% trên tổng số 1879 DVCTT. Theo đó, cơ bản các thủ tục hành chính (TTHC) của các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố được đưa lên Cổng Dịch vụ công để xử lý, giải quyết. Hệ thống phần mềm ứng dụng đã giúp các cơ quan nhà nước phối hợp giải quyết TTHC trên môi trường mạng xuyên suốt, liên thông; các phần mềm chuyên ngành được đưa vào sử dụng góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết công việc.

Bình Phước cũng là một trong những địa phương sớm triển khai xây dựng đô thị thông minh, bước đầu mang lại kết quả tích cực và rút được những kinh nghiệm quý. Trung tâm giám sát điều hành thông minh (IOC) đưa vào vận hành giúp lãnh đạo tỉnh thuận tiện trong việc giám sát, chỉ đạo, điều hành. Việc tiếp nhận, giải quyết TTHC trên địa bàn tỉnh ngày càng được công khai, minh bạch.

– Ninh Thuận: từ chủ trương, định hướng đã được xác định, những năm qua, tỉnh Ninh Thuận đã đầu tư nguồn lực và triển khai thực hiện nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này, qua đó, đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Hiện nay, cổng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh được kết nối, liên thông 32 thủ tục đất đai cấp huyện; kết nối đồng bộ trạng thái hồ sơ thủ tục hành chính và tích hợp 107 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 lên Cổng dịch vụ công quốc gia; kết nối Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, lý lịch tư pháp, hệ thống thanh toán trực tuyến của Cổng dịch vụ công quốc gia (PayGov)… Chỉ riêng năm 2020, toàn tỉnh có 1.748 thủ tục hành chính được cung cấp trên Cổng dịch vụ công của tỉnh, đạt 100% thủ tục hành chính đối với các cơ quan nhà nước. Đã xây dựng, cập nhật 547 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, đạt 31,29%, tăng 27,53% so với năm 2019.

Có được kết quả trên là nhờ thời gian qua, tỉnh đã quan tâm đầu tư hạ tầng, thiết bị công nghệ thông tin. Đến nay, 100% cơ quan chuyên môn từ tỉnh đến xã đã có mạng nội bộ (LAN); 7/20 sở, ban, ngành và 6/7 huyện, thành phố kết nối mạng diện rộng (WAN) của tỉnh thông qua mạng truyền số liệu chuyên dùng của Đảng và Nhà nước phục vụ truy cập internet và các phần mềm dùng chung tại các cơ quan, đơn vị. Tuyến cáp quang kết nối internet đã kết nối 100% đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Hiện 100% sở, ban ngành, UBND cấp huyện, xã đã triển khai phần mềm Quản lý văn bản và hồ sơ công việc được tích hợp chứng thư số và được gắn mã định danh. Tỷ lệ văn bản đi/đến được chuyển hoàn toàn trên môi trường mạng so với tổng số văn bản đi/đến giữa các cơ quan, đơn vị trong nội bộ tỉnh, đạt tỷ lệ trên 97% (trừ văn bản mật). Đẩy nhanh số hóa chính là mục tiêu của việc xây dựng CQĐT nhằm xây dựng nền hành chính chính quy, hiện đại, phục vụ nhân dân và doanh nghiệp tốt nhất, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Để làm được điều này, tỉnh tiếp tục nguồn lực đầu tư, hoàn thiện hạ tầng thiết bị CNTT, bảo đảm kết nối an toàn các mạng LAN với mạng internet băng thông rộng và mạng truyền số liệu chuyên dùng của tỉnh; triển khai mạng truyền số liệu chuyên dùng cho cơ quan nhà nước các cấp. Tập trung các giải pháp nâng cao tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức 4 lên cao nhất, đạt chất lượng tốt nhất. Đặc biệt vận hành hiệu quả Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh.

– Thanh Hóa: trong những năm qua, trên cơ sở những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hướng dẫn của các bộ, ban, ngành Trung ương, Sở Thông tin và Truyền thông Thanh Hóa đã kịp thời tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản làm cơ sở pháp lý quan trọng đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng thành công CQĐT, CQS góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, công khai, minh bạch, rút ngắn thời gian, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, xử lý công việc, tiết kiệm thời gian và chi phí, mang lại hiệu quả thiết thực cho các cơ quan nhà nước, người dân, doanh nghiệp và đã đạt được những kết quả nổi bật.

Hạ tầng viễn thông băng thông rộng, nền tảng cho triển khai xây dựng CQĐT, CQS được triển khai đến 100% thôn, bản.Nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu của tỉnh (LGSP), được kết nối, liên thông với hệ thống của Quốc gia, phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử liên thông 4 cấp chính quyền từ trung ương đến cấp xã. Đến nay, 100% các sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện, cấp xã đã điều hành, xử lý công việc trên hệ thống TD-Office, nhiều chuyển biến tích cực, thay đổi căn bản, chuyển từ hình thức làm việc giấy tờ sang điều hành, xử lý công việc trên môi trường điện tử trong cơ quan nhà nước, thời gian gửi, nhận văn bản từ tỉnh đến xã chỉ còn tính bằng giây. Tỷ lệ gửi, nhận văn bản điện tử của các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh đến nay đạt trên 97%.

Ứng dụng chữ ký số được quan tâm và đẩy mạnh sử dụng trong các cơ quan, đơn vị. Đến nay, 100% các cơ quan hành chính và lãnh đạo từ cấp tỉnh đến cấp xã đã được cấp chứng thư số phục vụ việc ký số văn bản, thực hiện các giao dịch trên môi trường điện tử. Hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến; ứng dụng CNTT trong xử lý, điều hành công việc; các dịch vụ công trực truyến mức độ 3, mức độ 4 đang phát huy hiệu quả trong giải quyết thủ tục hành chính phục vụ người dân và doanh nghiệp, trong lãnh đạo, điều hành của các cấp, nhất là trong các tình huống khẩn cấp như phòng, chống dịch bệnh, bão lụt, thiên tai… Đặc biệt, trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội, phòng chống dịch bệnh Covid-19.

– Thừa Thiên Huế: xác định công tác cải cách hành chính vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, thời gian qua tỉnh Thừa Thiên Huế đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao các nhiệm vụ của công tác cải cách hành chính, hướng tới xây dựng nền hành chính minh bạch, chuyên nghiệp, hiện đại để phục vụ Nhân dân ngày càng tốt hơn.

Mặc dù không phải là một địa phương có tiềm lực tài chính dồi dào để đầu tư thật lớn cho CNTT, nhưng với những cách làm mới mẻ, sáng tạo, cùng với quyết tâm cao, Thừa Thiên Huế đã gặt hái nhiều thành công bước đầu, trở thành đơn vị dẫn đầu toàn quốc về phát triển chính phủ điện tử cấp tỉnh. Dự án Trung tâm điều hành đô thị thông minh của tỉnh đạt giải thưởng Viễn thông châu Á ở hạng mục dự án Thành phố thông minh sáng tạo nhất châu Á. Đây là niềm vinh dự lớn lao của tỉnh trong hoạt động quản trị, điều hành và phục vụ Nhân dân; đồng thời, là kết quả tất yếu và khẳng định bước đi đúng đắn của tỉnh trong ứng dụng CNTT vào hoạt động cải cách hành chính; xây dựng CQĐT, CQS phát triển dịch vụ đô thị thông minh để nâng cao chất lượng hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước trong thời đại công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu.

Hiện tại, tỉnh đã xây dựng Đề án “Phát triển dịch vụ đô thị thông minh trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, định hướng đến năm 2025” với mục tiêu: Nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và hoạt động của các doanh nghiệp thông qua việc áp dụng CNTT và truyền thông để hỗ trợ giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề được người dân, doanh nghiệp quan tâm, như: y tế, giáo dục, du lịch, giao thông, môi trường; bảo đảm mọi người dân được hưởng thụ các dịch vụ công một cách nhanh chóng, thuận tiện. Thừa Thiên Huế phấn đấu đến năm 2025 sẽ tiếp cận với các thành phố thông minh hiện đại trong khu vực và thế giới trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và du lịch.

Trong thời gian tới, tỉnh tập trung quan tâm đào tạo nhân lực CNTT, đào tạo cho đội ngũ công chức phù hợp với yêu cầu của CQĐT, CQS. Đẩy mạnh việc truyền thông về CQĐT, CQS để người dân hiểu, tiếp cận và sử dụng các yếu tố của CQĐT, CQS. Tạo dựng môi trường đầu tư cạnh tranh, đơn giản hóa thủ tục hành chính thông qua ứng dụng CNTT, hướng tới môi trường “Làm việc không giấy tờ; họp hành không tập trung; giải quyết thủ tục hành chính không tiếp xúc; thanh toán không dùng tiền mặt”.

– Thành phố Đà Nẵng: từ những năm 2000, thành phố Đà Nẵng đã bắt đầu triển khai chính quyền điện tử, quá trình triển khai được tiếp cận tổng thể theo khung kiến trúc, đồng bộ trên 4 trụ cột: chính sách, hạ tầng, ứng dụng và nhân lực nhằm phục vụ hoạt động quản lý của bộ máy hành chính thành phố và cung cấp dịch vụ hành chính công cho các tổ chức, công dân. Xây dựng thành phố thông minh là bước tiếp theo của xây dựng CQĐT đã được triển khai dựa trên hạ tầng, dữ liệu, dịch vụ với nguyên tắc “Một nền tảng, đa đối tác, đa ứng dụng, người dân làm trung tâm”, trong đó vai trò của dữ liệu là nền tảng chính.

Quản lý dựa trên dữ liệu và thông tin chính là nền tảng để Đà Nẵng xây dựng thành phố thông minh, đây là mô hình quản lý đô thị, trong đó công nghệ thông tin – truyền thông được sử dụng như một công cụ để giải quyết những thách thức trong quản lý đô thị hiện đại dựa trên dữ liệu và thông tin được thu thập, lưu trữ, xử lý”. Từ năm 2014, UBND thành phố đã phê duyệt “Đề án xây dựng thành phố thông minh hơn”. Trên cơ sở đó, từ năm 2014 đến nay, thành phố đã phối hợp với các doanh nghiệp công nghệ thông tin hàng đầu (Viettel, VNPT, FPT, Microsoft, Intel…) triển khai thí điểm các ứng dụng thông minh trong một số lĩnh vực chuyên ngành, như: giao thông, cấp nước, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, giáo dục, y tế.

Đà Nẵng cũng đã triển khai hiệu quả Đề án xây dựng thành phố thông minh trong giai đoạn 2021 – 2025, làm cơ sở quan trọng để đến năm 2030, thành phố Đà Nẵng hoàn thành xây dựng đô thị thông minh kết hợp đồng bộ với các mạng lưới đô thị thông minh trong nước và khu vực ASEAN. Đà Nẵng là địa phương 11 năm liên tiếp dẫn đầu cả nước về Chỉ số sẵn sàng ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin (Vietnam ICT Index), đạt giải thưởng Thành phố thông minh ASOCIO 2019 của Tổ chức Công nghiệp điện toán châu Á -Thái Bình Dương và nhiều giải thưởng của các tổ chức uy tín trong nước và quốc tế; góp phần không nhỏ cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) và chỉ số cải cách hành chính (PAPI) của thành phố Đà Nẵng, phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan thành phố và đáp ứng nhu cầu người dân, tổ chức, doanh nghiệp.

Những kết quả trên là những thành công, cố gắng, nỗ lực của các tỉnh, thành phố đạt được trong việc xây dựng và phát triển CQĐT, CQS trong những năm vừa qua, để đạt được những kết quả do, các tỉnh đã đầu tư tài chính, nhân lực cũng như tận dụng các chính sách, pháp luật nhằm hỗ trợ việc đẩy mạnh phát triển CQĐT, CQS theo đặc thù, điều kiện riêng của mỗi tỉnh.

Tuy nhiên, việc triển khai xây dựng CQĐT, CQS của các tỉnh, thành phố thời gian qua vẫn còn một số bất cập, hạn chế, nhiều nội dung triển khai CQĐT chưa được như mong đợi, như: người đứng đầu một số cơ quan nhà nước chưa thực sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt việc xây dựng, vận hành CQĐT. Trong khi đó nguồn nhân lực phục vụ ứng dụng CNTT trong hệ thống cơ quan nhà nước còn mỏng, chất lượng tuy đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng nhiệm vụ. Một số văn bản quy phạm pháp luật cho xây dựng vận hành CQĐT, CQS chưa được hoàn thiện. Công tác tuyên truyền thông tin về xây dựng vận hành CQĐT, CQS góp phần cải cách thủ tục hành chính còn hạn chế. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ. Đây là một trong những khó khăn, trở ngại nhất khi triển khai các ứng dụng CNTT, đặc biệt là các dịch vụ công trực tuyến. Ngoài ra, do nguồn kinh phí cho việc đầu tư cho lĩnh vực CNTT còn gặp nhiều khó khăn, việc triển khai đồng bộ các hạng mục phần mềm, cơ sở dữ liệu, kết nối liên thông, đường truyền số liệu chuyên dùng… đòi hỏi chi phí lớn nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.

Để xây dựng, phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số tại các tỉnh, thành phố

Xây dựng và phát triển CQĐT, CQS tại các địa phương như những hạt nhân gộp lại sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho phát triển chung chính phủ điện tử của nước ta. Hiện nay, các phương pháp tiếp cận của thành phố thông minh là thông qua các biện pháp thúc đẩy các công nghệ số để tối ưu hóa hoạt động quản lý đô thị và nâng cao khả năng tương tác giữa các chủ thể trong nhà nước và ngoài nhà nước nhằm theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững.

Để phát triển CQĐT, CQS tại các tỉnh, thành phố, cần:

Trước hết, xác định thế mạnh của mỗi tỉnh. Du lịch tự nhiên, du lịch di sản chính là thế mạnh của các tỉnh, thành phố, từ đó xây dựng CQĐT, CQS, đô thị thông minh theo hướng tạo điều kiện về phát triển du lịch thông minh. Du lịch thông minh là một thành phần trong đô thị thông minh, sử dụng CNTT truyền thông để hình thành hệ sinh thái du lịch, phục vụ 3 đối tượng là du khách, chính quyền, doanh nghiệp. Công nghệ mới sẽ tăng sức hấp dẫn cho sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng trải nghiệm cho khách tại điểm đến. Công tác QLNN về du lịch sẽ thay đổi phương thức theo hướng hiệu quả hơn, còn các doanh nghiệp du lịch sẽ được nâng cao sức cạnh tranh. Du lịch thông minh cũng hỗ trợ doanh nghiệp và cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo (Ví dụ: Đại nội Huế đã sử dụng hình thức tham quan thực tế ảo cho du khách nhằm tăng trải nghiệm khi đến tham quan Đại nội). Ngoài ra, du lịch thông minh cũng giúp giảm tiếp xúc trực tiếp trong bối cảnh sau dịch bệnh Covid-19 như hiện nay.

Thứ hai, xu hướng phát triển CQĐT, CQS chính là để thay đổi nền hành chính cứng nhắc bấy lâu của chúng ta. Từ giải quyết mọi công việc qua giấy tờ, thời gian giải quyết chậm, thủ tục rườm rà do phải qua nhiều khâu trình, ký, phê duyệt mới đến được với người dân, doanh nghiệp, thì nay, nhờ có CQĐT, CQS việc tiếp cận với các thủ tục tục hành chính cũng như chờ giải quyết thủ tục hành chính đã nhanh hơn rất nhiều, tạo sự thông thoáng, thoải mái cho cả cơ quan nhà nước, người dân cũng như doanh nghiệp, giảm bớt gánh nặng nhân lực trong khu vực công. Thông qua cách tiếp cận quản trị chính quyền dựa trên nền tảng điện tử này giúp thay đổi hệ thống hành chính cứng nhắc chỉ tập trung giải quyết những gì theo “đúng quy định” sang tiếp cận theo hướng “đáp ứng đòi hỏi xã hội” trên cơ sở khai thác sức sáng tạo và nguồn lực rộng mở. Nói cách khác, thay vì sử dụng nguồn lực con người thực thi nhiệm vụ hành chính là chính thì nay chính quyền dùng sức mạnh và ảnh hưởng của mình dựa trên nền tảng công nghệ để tiếp cận người dân, doanh nghiệp nhằm giải quyết, đáp ứng nhu cầu của các bên một cách nhanh, gọn, hiệu quả. Đây chính là xu hướng phát triển của CQĐT, CQS nhằm hướng tới áp dụng công nghệ số vào các hoạt động thông minh của chính quyền và các bên liên quan trong xử lý công việc, thông tin và ra quyết định.

Thứ ba, việc người dân, doanh nghiệp cũng như các bên liên quan phản hồi lại những quyết định, hoạt động của chính quyền địa phương qua hình thức điện tử chính là góp phần thúc đẩy CQĐT, CQS, đô thị thông minh phát triển. Sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và mức độ tham gia đến đâu, quá trình ra quyết định sẽ liên quan đến các hành động của chính quyền địa phương. Sự tham gia của các bên vào phát triển đô thị thông qua thu thập, phân tích thông tin tri thức, chuyên môn từ những người dân, cộng đồng của địa phương đã thúc đẩy quá trình ra quyết định lập quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị dân chủ, minh bạch hơn.

Công nghệ ICT ngày nay đã xóa nhòa các khoảng cách về không gian và thời gian, cho phép hỗ trợ hoặc thiết lập các công cụ giao tiếp, đối thoại theo thời gian thực giữa chính quyền địa phương, người dân đô thị và các bên liên quan, hướng tới mối quan hệ minh bạch và bình đẳng của một không gian đô thị phát triển bền vững. Đây chính là xu hướng phát triển của CQĐT, CQS đôi bên cùng có lợi. Tuy nhiên, để thu hút cộng đồng người dân, doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển CQĐT cũng như đô thị thông minh thì cần có các điều kiện sau: (1) Người dân cần có ảnh hưởng đến việc định hình thành phố thông minh, ở đó, các nhà quản lý, chính quyền địa phương cần phải minh bạch ở tất các các lĩnh vực mà người dân có thể có tác động ảnh hưởng và nơi nào không thể tác động. (2) Chính quyền địa phương cần từng bước giảm dần sự “độc quyền” trong xây dựng chính sách, thực hiện chính sách trong xây dựng hoạt động của chính quyền địa phương cũng như thiết kế hoạt động của đô thị thông minh. Người dân cũng có quyền được tham gia một phần trong quá trình định hướng về chính sách và thiết kế đô thị trong tương lai.

Kết luận

Sự xuất hiện của nhiều ý tưởng, sáng kiến đổi mới, sáng tạo đã tạo động lực mới thúc đẩy sự phát triển của CNTT và truyền thông ở các tỉnh, thành phố trên cả nước. Đồng thời, thay đổi phương thức hoạt động, cung cấp dịch vụ của chính quyền địa phương cho người dân. Thông qua những tiến bộ của CNTT và truyền thông, trong bối cảnh quá trình đô thị hóa ngày càng tăng mang đến cho mỗi địa phương những thách thức mới. CQĐT, CQS và đô thị thông minh đem lại rất nhiều lợi ích cho sự phát triển kinh tế -xã hội của mỗi địa phương, như: đối với chính quyền và các cơ quan nhà nước, sử dụng thông tin, dữ liệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan, phục vụ công tác quy hoạch dự báo, tạo môi trường quản lý hiện đại, hiệu quả; đối với người dân, doanh nghiệp thì được tiếp cận thông tin đầy đủ, công khai, minh bạch, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, tạo môi trường kinh doanh bền vững và cạnh tranh cho doanh nghiệp. Từ đó, sẽ là động lực to lớn cho chính quyền các tỉnh, thành phố xây dựng và phát triển CQĐT, CQS ngày một hiệu lực, hiệu quả, hướng tới sự phát triển bền vững cho mỗi địa phương.

Tài liệu tham khảo:
1. Xây dựng chính quyền điện tử, giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả giải quyết công việc của chính quyền các cấp. https://baothanhhoa.vn ngày 29/10/2020.
2. Thừa Thiên Huế cải cách hành chính gắn với xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số. https://thuathienhue.gov.vn, ngày 01/12/2020.
3. Xây dựng thành phố thông minh tiến tới chính quyền điện tử. http://baodanang.vn, ngày 15/10/2020.
4. Đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử. http://baoninhthuan.com.vn, ngày 22/4/2021.
5. Báo cáo số 87/BC-STTTT, ngày 19/5/2022 của Sở Thông tin và Truyền thông Bình Phước về kết quả thực hiện chuyển đổi số tại tỉnh Bình Phước.
ThS. Ngô Hoàng Kiệt
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước