Những tác động của tiến trình toàn cầu, hội nhập quốc tế và sự điều chỉnh chiến lược của Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong xu thế chung toàn cầu, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chung nhận thức: toàn cầu hóa không chỉ đem đến những cơ hội mà cả những thách thức. Trên quan điểm đó, việc nhìn nhận và phân tích được bản chất của tiến trình toàn cầu hóa một cách khách quan cũng như xác định phương hướng giải quyết và lựa chọn các quyết sách cho mỗi quốc gia nhằm chủ động hội nhập cũng như điều chỉnh chiến lược trong các quan hệ quốc tế hiện nay của mỗi một quốc gia được coi là những ưu tiên hàng đầu hiện nay.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Phiên thảo luận cấp cao của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu. (Ảnh: TTXVN)
Các nhân tố chính tác động dẫn đến nước lớn phải điều chỉnh chiến lược

Cùng với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, những thách thức về biến đổi khí hậu với sự gia tăng phát thải khí nhà kính trong khí quyển là nguyên nhân gây ra những thảm họa tự nhiên ngày càng khốc liệt, như: lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, nước biển dâng… đã và đang trở thành chủ đề chính trên các diễn đàn đa phương gây nhiều tranh cãi, bất đồng giữa một bên là các quốc gia phát triển với một bên là các quốc gia kém phát triển. Tiến trình toàn cầu hóa (TCH) đang có những đặc trưng mới, xu thế vận động mới với sự điều chỉnh mạnh mẽ của các tác nhân tham gia vào quá trình này, từ các định chế quốc tế, khu vực, công ty xuyên quốc gia tới các quốc gia.

 (1) Làn sóng TCH và xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới.

Thập kỷ 90 của thế kỷ XX cũng là thời điểm chứng kiến sự chuyển giao công nghệ, các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với quy mô ngày càng gia tăng giữa các quốc gia, các khu vực trên toàn cầu. Nền kinh tế của các quốc gia, các khu vực ngày càng đan xen, hợp tác chặt chẽ với nhau tạo nên một xu hướng mới – xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. Khác với các làn sóng TCH trước đây, trong xu thế TCH kinh tế mới, sự lưu chuyển các dòng vốn xuyên quốc gia ngày càng gia tăng mạnh mẽ, chi phối các hoạt động tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các quốc gia, khu vực. Các thể chế tài chính quốc gia, khu vực ngày càng gắn kết và chịu sự chi phối của các định chế quốc tế.

Trong nền kinh tế toàn cầu, các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế ngày càng chiếm vị trí quan trọng áp đặt cho các hoạt động kinh tế tài chính của các quốc gia. Sự gia tăng các hoạt động buôn bán thương mại ở cấp độ khu vực và thế giới theo những quy tắc và chuẩn mực chung trên bình diện quốc tế đã làm gia tăng việc hình thành các tổ chức và định chế quốc tế mang tính toàn cầu như: Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB)… Sự đa dạng và phong phú trong các hình thức liên kết kinh tế khu vực gia tăng như xu hướng tiến tới một liên minh kinh tế tiền tệ thống nhất của Liên minh châu Âu (EU), những thỏa thuận khu vực thương mại ưu đãi,như: Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khối Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR)…

Dưới tác động của các tổ chức kinh tế khu vực và liên kết khu vực, cơ cấu thương mại quốc tế đã có những thay đổi khá rõ nét thể hiện tỷ trọng kim ngạch thương mại của các khu vực đang phát triển trong tổng kim ngạch thương mại toàn cầu.

Trong môi trường TCH, mối liên kết giữa các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới ngày càng chặt chẽ, việc ứng xử giải quyết các tranh chấp thương mại, đầu tư… giờ đây không còn là công việc riêng lẻ của mỗi quốc gia mà đòi hỏi có sự phối hợp và giải quyết của nhiều bên tham gia với các cơ chế, định chế và tài chính mang tính toàn cầu. Nền kinh tế toàn cầu như một cơ chế tương tác thống nhất, bình đẳng, có hiệu quả của các liên minh trong khuôn khổ giữa các nước, các quốc gia nhằm khắc phục các cuộc khủng hoảng và các xung đột chính trị – xã hội, kinh tế, sinh thái, công nghệ nảy sinh theo chu kỳ.

TCH thúc đẩy sự thay đổi cục diện quyền lực kinh tế, chính trị giữa các quốc gia, khu vực. Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu năm 2008 xảy ra với những diễn biến phức tạp đã làm thay đổi cục diện thế giới, từ xu thế đơn cực với sự chi phối của Mỹ kể từ sau chiến tranh lạnh giờ đây đã chuyển dần sang xu thế đa cực với sự vươn lên mạnh mẽ của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Trật tự thế giới mới trong sự đan xen, ràng buộc của những “luật chơi” cũ và mới sẽ ngày càng khẳng định Mỹ và các nước phương Tây không còn khả năng định lại trật tự thế giới theo ý muốn chủ quan của mình, thay vào đó, trong một thế giới đa cực, những nền kinh tế mới nổi, như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Bra-xin… sẽ có vai trò ngày càng lớn hơn trong việc quản lý kinh tế toàn cầu.

(2) Sự ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0).

CMCN 4.0 đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh, nhiều diễn biến khó lường, tác động đến sự phát triển kinh tế – xã hội của nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Dưới tác động của công nghệ kết hợp giữa thế giới thực và thế giới ảo, những thách thức đặt ra đối với con người là hơn bao giờ hết. Mặc dù nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau về CMCN 4.0, nhưng tựu chung lại, các công trình nghiên cứu đều cho rằng, sức ảnh hưởng của CMCN 4.0 trên các mặt kinh tế – xã hội của các quốc gia là rất lớn, các quốc gia cần nhận diện và có sự chuẩn bị cho mình để tận dụng cơ hội, vượt qua các thách thức mà cuộc cách mạng mang lại.

Các xu hướng công nghệ của CMCN 4.0 thuộc về ba lĩnh vực khoa học là vật lý (công nghệ in 3D), công nghệ số (internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối) và sinh học (công nghệ gen và công nghệ tế bào) đang làm thay đổi nền tảng cốt lõi trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, an ninh, quốc phòng. Các cường quốc hàng đầu thế giới như: Mỹ và Trung Quốc đang tiến hành tái cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng “xanh, sạch, thông minh”. Phương thức và hình thức cạnh tranh cũng thay đổi theo hướng chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh không gian mạng. Những điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đòi hỏi các quốc gia khác trên thế giới phải có sự điều chỉnh, có đối sách phù hợp với tình hình mới.

(3) Lợi ích quốc gia – dân tộc.

Lợi ích quốc gia – dân tộc là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia trong hoạch định, thực thi chiến lược, chính sách phát triển, bảo vệ đất nước và hợp tác quốc tế. Ngày nay, lợi ích giữa các quốc gia ngày càng đan xen trên cơ sở vừa hợp tác, vừa cạnh tranh quyết liệt trong cục diện thế giới mới với các xu thế lớn là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; hòa bình, hợp tác và phát triển, song cũng chứa đựng bất ổn, xung đột dưới nhiều hình thức, phức tạp. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia đã công khai quan điểm về lợi ích quốc gia – dân tộc.

Lợi ích quốc gia – dân tộc bao gồm lợi ích về kinh tế, về chính trị, về văn hóa – xã hội, về quốc phòng – an ninh, về đối ngoại. Trong đó, lợi ích kinh tế là trung tâm của mọi lợi ích. Lợi ích chính trị gắn liền với sự ổn định, vững mạnh và sự lãnh đạo, quản lý, vận hành hiệu lực, hiệu quả của thể chế chính trị được xác lập trong Hiến pháp. Lợi ích văn hóa góp phần tạo ra những giá trị làm nền tảng tinh thần của xã hội. Lợi ích quốc phòng – an ninh, đối ngoại gắn với độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định của đất nước,là cơ sở, nền tảng để bảo vệ và phát huy, phát triển, mở rộng lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Lợi ích quốc gia, dân tộc là tối cao. Việc xử lý hài hòa lợi ích của các bên tham gia cuộc chơi là điều kiện bảođảmthành công của hợp tác. Hợp tác và đấu tranh đan xen, các quốc gia trở nên phụ thuộc lẫn nhau vô cùng sâu sắc. Sự phát triển của các vấn đề toàn cầu như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, nước biển dâng, biến đổi khí hậu… đã buộc tất cả các quốc gia phải hợp tác để giải quyết.

Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ và Trung Quốc

– Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ.

Dựa trên quá trình hợp tác khu vực, hai yếu tố đang ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ ở châu Á: (1) Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ đang quá tập trung vào chống khủng bố và Trung Đông. Mỹ không còn đủ nguồn lực để bao quát cả phần còn lại của châu Á. (2) Động lực của chủ nghĩa khu vực ở châu Á xuất phát chính từ các quốc gia châu Á và đi kèm với các ý định khác nhau trong cạnh tranh giữa các cường quốc.

Hiện nay, Mỹ đang có ý định mở rộng và thắt chặt quan hệ đối tác với khu vực. Nỗ lực mang tính xây dựng nhất của Mỹ cho đến thời điểm này là tạo ra sự liên kết trực tiếp với các cơ chế “ASEAN cộng”. Năm 2010, ASEAN + 8 (thêm Nga và Mỹ vào danh sách cộng 6 vốn có) đang trong quá trình hình thành. Hội nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ASEAN + 8 lần đầu tiên đã diễn ra vào tháng 10/2010 ở Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN + 8 đầu tiên (cấp cao Đông Á) đã diễn ra thành công sau đó. Hơn nữa, Mỹ đang gia tăng tần suất các chuyến thăm cấp cao đến châu Á1.

Cách tiếp cận của Mỹ đối với chủ nghĩa khu vực châu Á dưới chính quyền Bush, thời mà Mỹ chỉ nỗ lực để tái nhấn mạnh tầm quan trọng của APEC và ARF đối với các vấn đề khu vực và nỗ lực để vẽ ra một miếng bánh chính trị trong không trung – Khu vực mậu dịch tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP) là chưa đủ2.

– Cạnh tranh Mỹ – Trung Quốc ở khu vực Biển Đông.

Do bị thúc đẩy từ một vài yếu tố trong khu vực, các bên đã bắt đầu những nỗ lực mới để tăng cường mở rộng yêu sách của mình ở Biển Đông. Đó là, nhu cầu năng lượng đang gia tăng, nỗ lực hợp pháp hóa các yêu sách tranh chấp, khơi dậy chủ nghĩa dân tộc, xây dựng quân sự của Trung Quốc và chạy đua vũ trang khu vực và sự can dự của các cường quốc. Tác động của căng thẳng chính trị khu vực giữa các bên yêu sách vẫn còn tồn tại. Các yếu tố dân tộc chủ nghĩa đã trở thành một trong các yếu tố mới trong các tranh chấp ở Biển Đông, điều có thể gây bất ổn an ninh khu vực3.

Chiến lược của Việt Nam trước những diễn biến khó lường về an ninhchính trị, kinh tế – xã hội

Trong một môi trường địa – chính trị đang có những diễn biến khó lường và rất nhiều thách thức, nước ta không những đã khẳng định được đầy đủ vai trò chủ động, tích cực của mình, mà còn thể hiện được những gì tốt nhất nhân dịp kỷ niệm 5 năm Cộng đồng ASEAN được thành lập (2015 – 2020), hơn 25 năm qua, Việt Nam gia nhập “mái nhà chung” ASEAN (1995 – 2020). Trong năm qua, nước ta đã tổ chức thành công tất cả các hội nghị cấp cao, bao gồm Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 và 37, đặc biệt, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 (tháng 11/2020) với 20 cuộc họp liên quan và hơn 80 văn kiện đã được thông qua. Đây được coi là số lượng văn kiện được thông qua cao nhất trong các kỳ họp ASEAN. Với vai trò chủ tịch, Việt Nam đã chủ động dẫn dắt, điều phối ASEAN vượt qua nhiều thách thức, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh Covid-19; đồng thời, phát huy tinh thần đoàn kết và hợp tác quốc tế, hỗ trợ khẩu trang, vật tư y tế, tài chính cho 51 quốc gia và tổ chức quốc tế ứng phó với dịch bệnh Covid-19. Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương, tổ chức hữu nghị của Việt Nam đều tích cực tham gia hỗ trợ các quốc gia, đối tác đang gặp khó khăn. Việt Nam cũng nỗ lực để tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, trang thiết bị y tế từ nhiều quốc gia trên thế giới và tổ chức quốc tế phục vụ kiểm soát dịch bệnh trong nước. Mô hình phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hiệu quả, được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao4.

Với vị thế và quyết tâm của mình, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; tham gia chủ động, tích cực tại Hội đồng Bảo an, thể hiện hình ảnh của một quốc gia rất có trách nhiệm trong đó đề cao luật pháp quốc tế, nỗ lực trong việc xây dựng sự đồng thuận và tìm kiếm những giải pháp thỏa đáng cho các tranh chấp, xung đột của các quốc gia trên thế giới… thông qua đàm phán, tính đến lợi ích chính đáng của các bên liên quan; Việt Nam luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm tái thiết và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế và khu vực. Trên cơ sở những sáng kiến của nước ta, Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc lần đầu tiên thông qua Tuyên bố Chủ tịch về tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc; tổ chức phiên họp về hợp tác giữa Liên hiệp quốc và ASEAN, qua Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc nâng tầm ASEAN và qua ASEAN cụ thể hóa nhiều nội dung hợp tác ở cấp độ toàn cầu; các ý kiến của Việt Nam liên quan đến xử lý các vấn đề phức tạp ở khu vực châu Á… được cộng đồng quốc tế đánh giá cao5.

Việt Nam lần đầu tiên đề xuất và thúc đẩy Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 27/12 hằng năm là Ngày Quốc tế phòng, chống dịch bệnh với số lượng các nước đồng bảo trợ đạt kỷ lục (112 nước). Sự tham gia của Việt Nam đối với hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tiếp tục được tăng cường. Những sáng kiến và đóng góp của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, khu vực, như Hội nghị cấp cao Á – Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G-20), Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các cơ chế Tiểu vùng Mekong…, được các nước ủng hộ, đánh giá cao.

Thành công của năm Chủ tịch AIPA 2020 và Đại hội đồng AIPA 41 trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, Việt Nam một lần nữa tiếp tục cho thấy,bản lĩnh và trách nhiệm của Quốc hội Việt Nam. Đây là bước tiếp nối những đóng góp của Quốc hội Việt Nam trong quá trình phát triển của AIPA.

Lần đầu tiên trong lịch sử AIPA, một kỳ Đại hội đồng đã được tổ chức theo hình thức trực tuyến trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 mà vẫn đáp ứng yêu cầu kịp thời trong việc thảo luận các biện pháp hợp tác giữa nghị viện các nước thành viên, tiếp tục thực hiện các mục tiêu xây dựng lấy người dân làm trung tâm. Chủ tịch Quốc hội Na Uy Tone Wilhelmsen Troen nhấn mạnh, sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Quốc hội Việt Nam, sự chuẩn bị xuất sắc, chuyên nghiệp của các thành viên Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam và các cán bộ, chuyên viên của Văn phòng Quốc hội đã góp phần tạo nên thành công của kỳ Đại hội đồng quan trọng này.

Còn Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam Pranay Verma nhấn mạnh, việc Quốc hội Việt Nam tổ chức thành công Đại hội đồng AIPA-41 trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đã truyền cảm hứng cho các nghị viện thành viên AIPA cùng nhau hành động chống lại dịch bệnh Covid-19, khắc phục những khó khăn do dịch bệnh gây ra.

Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội các nước Campuchia, In-đô-nê-xi-a, Lào, Ma-lai-xi-a, Mi-an-ma, Phi-lip-pin, Xinh-ga-po-re, Thái Lan cũng đánh giá cao công tác tổ chức chu đáo, kịp thời của Quốc hội Việt Nam, đặc biệt là sự chuẩn bị về mặt nội dung, kỹ thuật đường truyền, bảo đảm thành công của Đại hội đồng AIPA-41 vượt qua những thách thức của dịch bệnh Covid-19. Những nội dung của Năm Chủ tịch AIPA 2020, Đại hội đồng AIPA-41 đã mở ra cho AIPA xác định một tầm nhìn chiến lược của AIPA cho 5 – 10 năm tới, khẳng định vai trò của ngoại giao nghị viện khu vực và quốc tế, góp phần vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN ngày càng phát triển, hướng tới người dân vì hòa bình và thịnh vượng6.

Những kết quả đạt được về công tác ngoại giao của Việt Nam như: ngoại giao về chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại, công tác biên giới lãnh thổ, công tác người Việt Nam ở nước ngoài, công tác bảo hộ công dân… được triển khai tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng.

Đối với công tác biên giới lãnh thổ của Việt Nam năm 2020 được đặc biệt quan tâm và coi trọng trong việc xử lý kịp thời các vụ, việc nảy sinh, qua đó đã góp phần bảo vệ vững chắc về chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia – dân tộc. Việt Nam và Cam-pu-chia đã trao đổi văn kiện phê chuẩn hai văn kiện pháp lý, gồm: “Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chia” (Hiệp ước bổ sung năm 2019) và “Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chia” (Nghị định thư phân giới cắm mốc) cùng ký ngày 05/10/2019; công nhận 84% thành quả phân giới cắm mốc, chính thức đưa các văn kiện này có hiệu lực kể từ ngày 22/12/2020.

Việt Nam và Trung Quốc kỷ niệm 20 năm ký kết Hiệp ước biên giới trên đất liền (1999 – 2019) và 10 năm thực hiện ba văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền (2010 – 2020). Đây là những thành quả có ý nghĩa quan trọng, góp phần cùng các nước láng giềng xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Trong bối cảnh có những tranh chấp phức tạp trên Biển Đông, Việt Nam đã kịp thời đấu tranh ngoại giao, kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của đất nước7.

Kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập chặt chẽ với khu vực và thế giới. Đến nay, Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với 60 nền kinh tế, mở ra những thị trường xuất khẩu tiềm năng, đóng góp vào việc tăng kim ngạch thương mại từ 2,9 tỷ USD (năm 1986) lên trên 500 tỷ USD (năm 2019). Tính theo quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Việt Nam là nền kinh tế đứng thứ 46 trên thế giới. Năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 2.800 USD/người. Trong năm 2020, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,91% – mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011 – 2020 và cũng ở mức thấp nhất trong 35 năm Đổi mới (1986 – 2020), nhưng vẫn được xem là một kết quả ấn tượng trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 trên toàn cầu8. Viện Lowy – Trung tâm nghiên cứu chính sách đối ngoại độc lập của Ốt-xtrây-li-a nằm trong danh sách 30 trung tâm hàng đầu thế giới, hai năm liên tiếp (2018 và 2019) xếp Việt Nam trong nhóm các nước tầm trung mới nổi. Tạp chí The Economist (Anh) tháng 8/2020, đã xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. PwC – một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới (có trụ sở tại Anh), dự báo Việt Nam sẽ nằm trong số 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới sau năm 20309.

Như vậy, cục diện trong khu vực và thế giới trong những năm tới sẽ tiếp tục diễn biến theo xu hướng đa cực, đa trung tâm khi mà các nước lớn vừa hợp tác, vừa thỏa hiệp, cùng với đó là đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Điều đó cho thấy, luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu sẽ đứng trước những thách thức lớn; kinh tế thế giới sẽ bị tác động tiêu cực và có thể còn kéo dài do tác động của dịch bệnh Covid-19… tác động đa chiều tới tình hình trong nước cũng như việc triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam.

Chú thích:
1,2,3,4. Đặng Đình Quý – Biển Đông hướng tới một khu vực hòa bình, an ninh và hợp tác. Trung tâm dữ liệu Biển Đông http://nghiencuubiendong.vn.
5,6,7,8,9. Đối ngoại Việt Nam năm 2020 – tự tin vững bước trên con đường phát triển. https://www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 12/02/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Hợp tác và cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ở Đông Nam Á. H. NXB Thế giới, 2014.

TS. Phạm Quốc Vinh
Học viện Hành chính Quốc gia