Đánh giá của Liên hiệp quốc về chính phủ điện tử tại Việt Nam năm 2022

(Quanlynhanuoc.vn) – Khảo sát của Liên hiệp quốc năm 2022 nêu bật những đóng góp ngày càng tăng của chuyển đổi số và chính phủ số. Khảo sát chứng minh rằng, công nghệ số cho phép các chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết những thách thức xung quanh cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu và trong bảo đảm cung cấp hiệu quả những dịch vụ công thiết yếu cho người dân. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, sự cải thiện về cơ sở hạ tầng viễn thông, gia tăng chỉ số nguồn nhân lực và chỉ số phát triển chính phủ điện tử tại Việt Nam đã tăng lên so với năm 2020.
Ảnh minh họa (internet).
Chính phủ điện tử của Việt Nam năm 2022

Đánh giá Chính phủ điện tử (CPĐT) của Việt Nam năm 2022 cho thấy, chỉ số phát triển chính phủ điện tử (E-Government Development Index – EGDI) tăng không nhiều với 0,6787 điểm1; năm 2020, chỉ số EGDI là 0,6667 điểm2. Theo 4 mức đánh giá của Liên hiệp quốc về chỉ số EGDI, gồm: rất cao trên 0,75 điểm; cao từ 0,5 – 0,75 điểm; trung bình từ 0,25 – 0,5 điểm và mức thấp dưới 0,25 điểm. Theo đó, năm 2022, chỉ số EGDI của Việt Nam thuộc mức cao và vẫn giữ nguyên thứ hạng là 86, không tăng bậc nào so với lần xếp hạng trước đó vào năm 20203.

So sánh với một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, như: Phi-líp-pin giảm 12 bậc (xếp thứ 89), Bru-nây giảm 8 bậc (xếp thứ 68), Ma-lai-xi-a giảm 6 bậc (xếp thứ 53), Xinh-ga-po giảm 1 bậc (xếp thứ 12), Thái Lan tăng 2 bậc (xếp thứ 55) và In-đô-nê-xi-a tăng 11 bậc( ở thứ 77). Việt Nam vẫn thuộc nhóm 6 nước đứng đầu Đông Nam Á về chỉ số EGDI năm 2020 và năm 20224.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn khoảng cách rất xa so với các quốc gia thuộc nhóm đầu, với chỉ số EGDI cao gấp khoảng 1,5 lần so với Việt Nam, gồm: đứng đầu là Đan Mạch với 0,9717 điểm, tiếp đó là Phần Lan với 0,9533 điểm, Hàn Quốc với 0,9529 điểm, sau đó đến các nước Niu-Di-lân 0,9432 điểm, Thụy Điển và Ai-xơ-len đều đạt 0,9410 điểm5.

Liên hiệp quốc đánh giá chỉ số EGDI ở các quốc gia dựa trên giá trị trung bình của 3 chỉ số, đó là: chỉ số dịch vụ trực tuyến (Online Service Index – OSI); chỉ số cơ sở hạ tầng viễn thông (Telecommunication Infrastructure Index – TII) và chỉ số nguồn nhân lực (Human Capital Index – HCI) của 193 quốc gia trên thế giới. Năm 2022, ngoại trừ chỉ số OSI, các chỉ số TII và chỉ số HCI của Việt Nam đều tăng so với năm 2020.

(1) Chỉ số OSI được Liên hiệp quốc đánh giá dựa trên 5 chỉ số thành phần, với tỷ lệ sau: khung thể chế  10%; cung cấp dịch vụ: 45%; cung cấp nội dung: 5%; công nghệ: 5% và tham gia điện tử: 35%. Năm 2022, chỉ số OSI của Việt Nam đạt 0,6484 điểm, thấp hơn so với năm 2020 là 0,6529 điểm. Trong đó, chỉ số thành phần về khung thể chế và cung cấp nội dung đạt điểm rất cao với lần lượt là 0,9231 điểm và 0,9 điểm; chỉ số thành phần về cung cấp dịch vụ đạt 0,6133 điểm; chỉ số thành phần về công nghệ đạt 0,6471 điểm và chỉ số thành phần tham gia điện tử chỉ đạt 0,5341 điểm6.

Những quốc gia có điểm chỉ số thành phần về khung thể chế và cung cấp nội dung cao nhất với 1 điểm (điểm tuyệt đối) là Vương quốc Anh, Tây Ban Nha, Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ấn Độ và hai quốc gia cùng trong khu vực Đông Nam Á là Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a. Ngoài ra, một số nước có chỉ số thành phần về tham gia điện tử đạt mức rất cao, gần gấp đôi chỉ số này của Việt Nam, như: Nhật Bản đạt 1 điểm, Vương quốc Anh đạt 0.9545 điểm, Hàn Quốc đạt 0,9432 điểm, Xinh-ga-po đạt 0,9773 điểm và Hoa Kỳ với 0,9091 điểm7.

Chỉ số thành phần về cung cấp dịch vụ của Việt Nam đạt mức cao với 0,6133 điểm, xấp xỉ một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, như: Phi-líp-pin: 0,64 điểm, Thái Lan: 0,6933 điểm. Tuy nhiên, chỉ số thành phần này thấp hơn nhiều nếu so với Xinh-ga-po: 0,92 điểm và  Hàn Quốc: 0,9723 điểm. Chỉ số thành phần về công nghệ, Việt Nam và In-đô-nê-xi-a cùng đạt: 0,6471 điểm, cao hơn là Phi-líp-pin: 0,5882 điểm và thấp hơn nhiều so với Nhật Bản đạt 1 điểm, Ma-lai-xi-a: 0,9412 điểm, Xinh-ga-po: 0,8824 điểm, Thái Lan: 0,7059 điểm8.

Từ số liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy, số lượng dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 3 và mức độ 4 đã được chú trọng xây dựng ngày càng nhiều, năm 2019 – 2020 tăng từ 50.819 – 68.500 dịch vụ. Trong đó, số lượng DVCTT mức độ 4 tăng gần gấp 3 lần vào năm 2020 với 38.376 dịch vụ9.

Đặc biệt, cuối năm 2019, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã được đưa vào vận hành, khai thác tại địa chỉ www.dichvucong.gov.vn, cung cấp các DVCTT mức độ 3 và 4 của 63 tỉnh, thành phố và 22 bộ, ngành. Đến nay, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã xử lý trên 5 triệu hồ sơ với hơn 4.000 DVCTT mức độ 3 và 4, trong đó có 2.245 dịch vụ dành cho người dân và 2.062 dịch vụ dành cho doanh nghiệp (DN). Các bộ và cơ quan ngang bộ cung cấp tổng số 1.337 DVCTT mức độ 3 và 4. Các tỉnh, thành phố tích hợp số lượng DVCTT mức độ 3 và 4 lên Cổng Dịch vụ công quốc gia nhiều, ít khác nhau. Nhiều nhất là tỉnh Ninh Thuận với 1.557 dịch vụ, tiếp theo là tỉnh Bình Phước với 1.468 dịch vụ, thành phố Đà Nẵng là 1.443 dịch vụ. Các tỉnh, thành phố có số lượng DVCTT tích hợp ít nhất lên Cổng Dịch vụ công quốc gia là TP. Hồ Chí Minh 22 dịch vụ, thành phố Hà Nội 250 dịch vụ và tỉnh Phú Yên 261 dịch vụ10.

Ngày 24/6/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2022/NĐ-CP quy định về cung cấp thông tin và DVCTT của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng. Theo đó, cơ quan nhà nước cung cấp DVCTT theo 2 mức độ sau:

DVCTT toàn trình: là dịch vụ bảo đảm cung cấp toàn bộ thông tin về thủ tục hành chính (TTHC), việc thực hiện và giải quyết TTHC đều được thực hiện trên môi trường mạng. Việc trả kết quả được thực hiện trực tuyến hoặc qua dịch vụ bưu chính công ích.

DVCTT một phần: là dịch vụ không bảo đảm các điều kiện như DVCTT toàn trình.

Đồng thời, Nghị định số 42/2022/NĐ-CP cũng quy định việc triển khai áp dụng chữ ký số công cộng, chữ ký số chuyên dùng cho các ứng dụng chuyên ngành đáp ứng yêu cầu về chữ ký số trong quá trình thực hiện DVCTT; phát triển, sử dụng các biểu mẫu điện tử tương tác theo quy định; kết nối, khai thác dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ sở dữ liệu dùng chung của các cơ quan nhà nước khác để tự động điền các thông tin vào biểu mẫu điện tử và cắt giảm thành phần hồ sơ, bảo đảm nguyên tắc tổ chức, cá nhân chỉ cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước khi thực hiện DVCTT nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc cung cấp DVCTT toàn trình tại Việt Nam.

(2) Chỉ số TII của Việt Nam năm 2022 là 0,6973 điểm11, cao hơn so với năm 2020 (0,6694 điểm)12. Liên hiệp quốc đánh giá chỉ số TII dựa vào 4 chỉ số thành phần là: số thuê bao điện thoại di động/100 dân; tỷ lệ người dùng internet; số thuê bao internet băng thông rộng (có dây)/100 dân và số thuê bao internet (di động) băng thông rộng/100 dân13.

Theo đó, năm 2022, số thuê bao điện thoại di động của Việt Nam là 120 thuê bao/100 dân; tỷ lệ người dùng internet 70,3%; số thuê bao internet băng thông rộng (có dây) là 17,13/100 dân; và số thuê bao internet (di động) băng thông rộng là 80,23/100 dân14.

So sánh các chỉ số thành phần trên của năm 2020, số thuê bao điện thoại di động/100 dân và tỷ lệ người dùng internet gần như không thay đổi. Thuê bao internet băng thông rộng (có dây) và thuê bao internet (di động) băng thông rộng đều tăng đáng kể, năm 2020, hai chỉ số thành phần này lần lượt là 13,6% và 71,89%15. Theo số liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, số lượng thuê bao internet băng thông rộng (cố định và di động) qua các năm ngày càng tăng cao. Năm 2020 và năm 2022 chỉ số TII của Việt Nam đều đạt mức cao (High) và cao hơn mức trung bình thế giới.

Tuy nhiên, so sánh chỉ số TII của Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á, như: Xinh-ga-po (0,8758 điểm), Ma-lai-xi-a (0,7945 điểm), Thái Lan (0,7338 điểm) thì chỉ số này của Việt Nam còn khá khiêm tốn, mặc dù, Việt Nam cũng đã tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng truyền thông – viễn thông, bao gồm cả việc triển khai mạng di động 5G. Năm 2022, chỉ số TII của Việt Nam cao hơn In-đô-nê-xi-a (0,6397 điểm) và Phi-líp-pin (0,5638 điểm) nhưng riêng chỉ số thành phần về thuê bao internet di động băng thông rộng của In-đô-nê-xi-a lại cao hơn Việt Nam với 104,19/100 dân. Tỷ lệ người dùng internet của hai quốc gia này đều thấp hơn nhiều so với Việt Nam là In-đô-nê-xi-a: 53,73% và Phi-líp-pin: 49,8%16.

(3) Chỉ số HCI của Việt Nam năm 2022 là 0,6903 điểm, cao hơn năm 2020 với 0,6779 điểm. Liên hiệp quốc đánh giá chỉ số HCI dựa vào 4 chỉ số thành phần, gồm có: tỷ lệ biết chữ của người lớn (từ 15 tuổi trở lên); tỷ lệ người đang theo học; số năm đi học dự kiến; số năm đi học trung bình. Trong đó, tỷ lệ biết chữ của người lớn của Việt Nam đạt 95,75%; tỷ lệ người đang theo học là 66%; số năm đi học dự kiến là 12,7 năm và số năm đi học trung bình chỉ đạt 8,3 năm17.

Trong khi đó, tại một số quốc gia phát triển, tỷ lệ biết chữ của người lớn đạt 99%, như: Vương quốc Anh, CHLB Đức, Cộng hòa Pháp, Phần Lan, Hoa Kỳ, Ốt-xtrây-li-a, Nhật Bản; số năm đi học trung bình đạt trên 13 năm, như: Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Thụy Sỹ, Ca-na-đa. Tại khu vực Đông Nam Á, In-đô-nê-xi-a có 2 chỉ số trên xấp xỉ Việt Nam, với tỷ lệ biết chữ của người lớn đạt 96% và số năm đi học trung bình là 8,2 năm. Thái Lan là nước có 2 chỉ số trên thấp hơn Việt Nam với 93,77% và 7,9 năm; Phi-líp-pin cao hơn nhưng không nhiều, với 96,28% và 9,4 năm18.

Tuy nhiên, trong hai năm (2020 và 2022), chỉ số HCI của Việt Nam đều đạt dưới mức trung bình của thế giới, cụ thể: năm 2020, mức trung bình là 0,6880 điểm, Việt Nam chỉ đạt 0,6779 điểm; năm 2022, mức trung bình là 0,7001 điểm, Việt Nam cũng chỉ đạt 0,6903 điểm19.

Giải pháp hướng tới chính phủ số, kinh tế số và xã hội số tại Việt Nam

Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã rất nỗ lực xây dựng CPĐT, hướng tới chính phủ số (CPS) vào năm 2030. Đặc biệt, hai năm gần đây với việc đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số (CĐS) trong các ngành, lĩnh vực theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” và Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030” đã cho thấy, quyết tâm của Chính phủ. Để tăng thứ hạng về chỉ số EGDI, theo đánh giá của Liên hiệp quốc, các chỉ tiêu đề ra trong Quyết định số 942/QĐ-TTg, Việt Nam tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước thông suốt, hiệu quả; đồng thời, tạo lập dữ liệu mở dễ dàng truy cập, sử dụng, tăng cường công khai, minh bạch, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số trong nền kinh tế. Hơn nữa, các cơ quan nhà nước chú trọng đẩy mạnh cung cấp DVCTT toàn trình (mức độ 4) trên thiết bị di động thông minh để người dân, DN có trải nghiệm tốt nhất về dịch vụ, nhanh chóng, chính xác, không giấy tờ, giảm chi phí.

Để có thể nắm bắt những cơ hội do cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, từng bước hướng tới CPS, nền kinh tế số và xã hội số, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, phát triển hạ tầng CPS phục vụ cơ quan nhà nước trên cơ sở kết hợp thế mạnh của mạng truyền số liệu chuyên dùng, mạng internet, trung tâm dữ liệu của cơ quan nhà nước để phục vụ kết nối liên thông, xuyên suốt 4 cấp hành chính, sử dụng cơ chế mã hóa và công nghệ bảo đảm an toàn, an ninh mạng do Việt Nam làm chủ một cách an toàn, bảo mật. Đồng thời, tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương, chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số, ứng dụng công nghệ điện toán đám mây phục vụ kết nối, quản lý các nguồn lực, dữ liệu của cơ quan nhà nước một cách an toàn, linh hoạt, ổn định và hiệu quả.

Hai là, đẩy mạnh triển khai các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát triển CPĐT. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, chú trọng tập trung vào 12 cơ sở dữ liệu quốc gia làm nền tảng xây dựng CPĐT, bao gồm: cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; đăng ký DN; tài chính; bảo hiểm; cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia; TTHC; an sinh xã hội; cơ sở dữ liệu về hộ tịch điện tử toàn quốc; tài nguyên và môi trường; về cán bộ, công chức, viên chức; về quy hoạch, cơ sở dữ liệu quốc gia về các dự án đầu tư và mạng đấu thầu quốc gia20. Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực và hỗ trợ DN phát triển.

Ba là, tích hợp và cập nhật dữ liệu số của các cơ quan nhà nước lên Cổng Dữ liệu quốc gia tại địa chỉ www.data.gov.vn (cổng này đã được Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì xây dựng và khai trương vào ngày 31/8/2020). Đồng thời, tích hợp với thành phần dữ liệu mở của hệ tri thức Việt số hóa, cung cấp dữ liệu mở, cung cấp hiện trạng và lộ trình xây dựng dữ liệu trong các cơ quan nhà nước, mức độ chia sẻ và sử dụng dữ liệu và các thông tin cần thiết để kết nối; đánh giá, xếp hạng công khai mức độ phát triển dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, cần phát triển nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, kết nối các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương nhằm kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu để cùng khai thác, sử dụng.

Bốn là, phát triển, hoàn thiện hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ (hệ thống này đã được Văn phòng Chính phủ khai trương vào ngày 03/3/2020), kết nối với hệ thống thông tin báo cáo của các bộ, cơ quan, địa phương bảo đảm tích hợp, chia sẻ dữ liệu số phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp theo thời gian thực.

Năm là, áp dụng công nghệ mới nhất về truyền thông xã hội, cung cấp thông tin và dịch vụ hành chính công một cách đơn giản, thuận tiện trên di động, phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, thực tế ảo/thực tế tăng cường để thực hiện CĐS toàn diện các mặt công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước và cung cấp trải nghiệm tốt nhất, thân thiện nhất cho người dùng.

Sáu là, phát triển, hoàn thiện hệ thống Cổng Dịch vụ công quốc gia (tại địa chỉ www.dichvucong.gov.vn) kết nối với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử của các bộ, ngành, địa phương để cung cấp các dịch vụ công trực tuyến toàn trình hoặc DVCTT mức độ 3. Thực hiện TTHC trên môi trường điện tử, số hóa kết quả giải quyết TTHC theo quy định tại Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử.

Bảy là, chuẩn hóa, điện tử hóa quy trình nghiệp vụ xử lý hồ sơ trên môi trường mạng, biểu mẫu, chế độ báo cáo; tăng cường gửi, nhận văn bản, báo cáo điện tử tích hợp chữ ký số giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội và các DN; thực hiện số hóa hồ sơ, lưu trữ hồ sơ công việc điện tử của các cơ quan nhà nước theo quy định.

Tám là, tập trung xây dựng 35 nền tảng số quốc gia, được chia thành 6 nhóm: nhóm nền tảng hạ tầng số; nhóm nền tảng công nghệ số cốt lõi; nhóm nền tảng CPS; nhóm nền tảng y tế – giáo dục – văn hóa – xã hội; nhóm nền tảng tài chính – ngân hàng – kinh doanh; nhóm nền tảng nông nghiệp – giao thông – kho vận – công thương, với sự tham gia của các DN công nghệ số Việt Nam.

Chín là, thử nghiệm triển khai hiệu quả một số dịch vụ trên nền tảng đô thị thông minh, thử nghiệm Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh; lựa chọn đô thị điển hình của tỉnh, thành phố để triển khai thử nghiệm, gắn liền phát triển dịch vụ đô thị thông minh với hệ thống chính quyền điện tử, phát triển bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn.

Mười là, xây dựng chương trình nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về CĐS, phát triển CPS cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động. Đồng thời, thu hút nhân lực có trình độ cao về công nghệ thông tin – truyền thông làm việc trong các cơ quan nhà nước.

Hiện nay, không chỉ Việt Nam, các nước đang phát triển vẫn đang phải đối mặt với dịch bệnh, biến đối khí hậu và những thách thức, rủi ro, như: an ninh mạng, bảo mật dữ liệu, thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và nguồn lực hạn chế để thực hiện chính sách về CPS. Để xây dựng thành công CPĐT, hướng tới CPS, nền kinh tế số, xã hội số và phát triển bền vững, Việt Nam cần có quyết tâm và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, đồng thời, đẩy mạnh hơn nữa chương trình CĐS quốc gia, tận dụng sức mạnh và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số.

Chú thích:
1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 11, 13, 14, 16, 17, 18, 19 . United Nations E-Government Survey 2022, Department of Economic and Social Affairs – UNITED NATIONS New York, tr. 220. 217, 217, 219, 235, 230, 231, 234, 143, 236, 239-242, 251, 244 – 250, 221.
2, 12, 15. United Nations E-Government Survey 2020, Department of Economic and Social Affairs – UNITED NATIONS New York, ngày 20/10/2022, tr. 272, 292.
9. Sách Trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam năm 2021, Bộ Thông tin – Truyền thông, tr. 31.
10. Cổng dịch vụ công quốc gia. https://dichvucong.gov.vn, ngày 20/10/2022.
20. Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 2.0 (theo Quyết định số 2323/QĐ-BTTTT ngày 31/12/2019 của Bộ Thông tin và Truyền thông), tr. 13 – 15.
ThS. Hoàng Thị Kim Chi
Học viện Hành chính Quốc gia