Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) –  Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt1. Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là vấn đề mang tính cốt lõi, nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Bài viết nhận định chất lượng đội ngũ đảng viên hiện nay và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII. Ảnh: baochinhphu.vn.
Đặt vấn đề

Một trong những điểm quan trọng của Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới là Đảng ta đã đánh giá những ưu điểm và hạn chế của đội ngũ đảng viên ở Việt Nam hiện nay. Đội ngũ đảng viên là những tế bào cơ bản của tổ chức đảng, sức mạnh của Đảng là do sức mạnh tổng hợp của đội ngũ đảng viên. Trình độ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng có được phát huy hay không phần lớn là do chất lượng đội ngũ đảng viên; trình độ phẩm chất năng lực, phương pháp tác phong công tác của đội ngũ đảng viên có ý nghĩa quyết định đến chất lượng TCCSĐ.

Thực trạng chất lượng độ ngũ đảng viên hiện nay

Ở nước ta, đội ngũ cán bộ, đảng viên (CBĐV) luôn ở vị trí hàng đầu với vai trò là nòng cốt trong công tác xây dựng Đảng. Chất lượng đảng viên có tầm quan trọng quyết định đến chất lượng công tác lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của Đảng, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Đảng luôn đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ CBĐV của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tiếp tục chỉ rõ: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng”2. Đây là nội dung hết sức quan trọng và cũng là một nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới chỉnh đốn Đảng theo tinh thần của Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Nhìn nhận một cách khách quan, trong thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được quan tâm đặc biệt, trong đó công tác xây dựng TCCSĐ, nâng cao chất lượng đảng viên có sự chuyển biến tích cực, đổi mới, hiệu quả. Nhiều cấp ủy đã cụ thể hóa tiêu chuẩn của người vào Đảng phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, “Trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ của đảng viên, nhất là của số đảng viên kết nạp trong nhiệm kỳ này được nâng lên. Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ trở lên theo đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm chiếm tỷ lệ cao”3. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm chưa khắc phục triệt để, như: một bộ phận không nhỏ CBĐV suy thoái về phẩm chất, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống kể cả một số cán bộ chủ chốt; sự yếu kém cả về phẩm chất, năng lực, xa rời thực tiễn, thiếu sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo làm giảm sút lòng tin của Nhân dân; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước; bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm trong một bộ phận không nhỏ CBĐV có chiều hướng gia tăng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhấn mạnh: “Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút; số đảng viên bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng”4. Rõ nhất là, một số tổ chức đảng ở các cấp có biểu hiện giảm sút sức chiến đấu. Việc thực hiện các nguyên tắc trong sinh hoạt đảng còn chưa nghiêm túc, có nơi người đứng đầu cấp ủy có biểu hiện độc đoán gia trưởng, lợi dụng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cho mục đích cá nhân. Thực hiện trách nhiệm nêu gương của CBĐV trước Nhân dân chưa nhiều, chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng, hiệu quả thấp. Hệ thống cơ chế, chính sách chưa phù hợp, công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật Đảng chưa nghiêm.

Nguyên nhân của tình trạng trên do nhiều yếu tố tác động, trước hết bắt nguồn từ căn bệnh chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng làm biến chất CBĐV. Những năm gần đây, do tác động của toàn cầu hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần đưa lại nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, Đảng ta cũng chưa lường hết mặt trái của kinh tế thị trường để CBĐV, Nhân dân phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực. Thực tiễn cho thấy, có nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đổi mới chưa đồng bộ đã tạo ra những kẽ hở, kích thích lòng ham muốn vật chất, địa vị, lối sống thực dụng, hưởng thụ, đi ngược với đạo đức, lối sống, chuẩn mực người cộng sản, đẩy nhanh tình trạng phân hóa giàu nghèo trong đội ngũ CBĐV.

Bên cạnh đó, không ít tổ chức đảng còn bộc lộ yếu kém trong lãnh đạo, buông lỏng công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, không chấp hành nghiêm túc Điều lệ Đảng và các nguyên tắc sinh hoạt Đảng, coi nhẹ công tác kiểm tra và kỷ luật Đảng. Một số tổ chức đảng ở các cấp, bình thường vẫn đạt “trong sạch, vững mạnh”; kết quả đánh giá phân loại tổ chức đảng, đảng viên hằng năm, tỷ lệ các chi bộ, đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, hoàn thành tốt và suất sắc nhiệm vụ rất cao, nhưng trong thực tế, niềm tin của Nhân dân với các tổ chức đảng, với đảng viên lại giảm sút, sức chiến đấu của tổ chức đảng yếu, ảnh hưởng đến niềm tin, đến ý chí phấn đấu, ý thức tu dưỡng, rèn luyện của CBĐV, dẫn đến sự suy thoái, biến chất về đạo đức, lối sống của không ít CBĐV. Mọi cơ chế là do con người tổ chức ra, nhưng sau khi đã ra đời thì cơ chế, chính sách lại tồn tại như một yếu tố khách quan, chi phối và tác động trực tiếp đến CBĐV. Một cơ chế đúng sẽ định hướng cho các chính sách đúng, quy định đúng, sẽ tạo và buộc người chưa tốt, phải phấn đấu thành người tốt. Ngược lại, cơ chế sai lầm có thể làm cho người tốt cũng có thể thành người xấu.

Một số khuyến nghị nâng cao chất lượng đảng viên trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng

Đất nước đang bước sang một giai đoạn cách mạng mới cần “tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân các cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố về không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”5, muốn vậy cần quán triệt và thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì, đối với công tác bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng.

Đây là giải pháp quan trọng giữ vai trò định hướng, quyết định nâng cao chất lượng đảng viên ở các TCCSĐ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, xây dựng các tổ chức trong đơn vị vững mạnh, toàn diện. Nhận thức là định hướng, dẫn đường cho hành động của mọi cá nhân và tổ chức trongthực thi nhằm bảo đảm cho hành động có hiệu quả, chất lượng cao. Cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp là những chủ thể trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện và giữ vai trò quyết định trong công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, bảo đảm cho đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì và cơ quan chức năng cần nắm vững, quán triệt, giáo dục cho mọi tổ chức, mọi lực lượng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, phát huy trách nhiệm thực hiện tốt các chủ trương, giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp trong quản lý, giáo dục, rèn luyện, định hướng tư tưởng, nhận thức và hành động cho đội ngũ đảng viên, qua đó tạo động lực cho các tổ chức, lực lượng, cá nhân chủ động, tích cực, tự giác tham gia vào các hoạt động giáo dục bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Bên cạnh đó, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp cần nắm chắc và đánh giá đúng về nhận thức, vai trò trách nhiệm của từng tổ chức, từng lực lượng để có những biện pháp bổ sung, kịp thời khắc phục triệt để những tư tưởng, nhận thức và hành động chưa đúng, chưa đầy đủ, trách nhiệm chưa cao trong công tác này. Từ đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý chí và hành động trong từng tổ chức và từng CBĐV đối với việc quản lý, bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ CBĐV.

Hai là, tăng cường bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ với thực tiễn hoạt động của mỗi cán bộ, đảng viên.

Thực tế cho thấy, đội ngũ CBĐV đều được trang bị lý luận chính trị nhưng nhìn chung trình độ tư duy lý luận của CBĐV còn bất cập, chưa vươn kịp tầm cao tư duy của Đảng. Vì vậy, trong học tập, đội ngũ CBĐV cần nắm vững phương châm lý luận gắn với thực tế, nhận thức đi đôi với hành động; không chỉ hiểu được thực chất lý luận mà quan trọng là tiếp thu nó, vận dụng củng cố niềm tin, xây dựng lập trường, quan điểm, bản lĩnh, tác phong công tác; phải nhận thức sâu sắc và thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác, cuộc sống. Từ thực tiễn công tác, từ nhận định tình hình đến đề xuất chủ trương, biện pháp đòi hỏi mọi CBĐV phải nhanh nhạy, chính xác mới đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Mỗi CBĐV phải coi việc học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ là nhu cầu, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của CBĐV; là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng nhằm xây dựng đội ngũ CBĐV đủ tâm, tầm, tài hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần bám sát thực tiễn, nhiệm vụ của từng tổ chức đảng, đảng viên, tình hình nhiệm vụ để xây dựng kế hoạch giáo dục cho phù hợp, bám sát nội dung hướng dẫn của cấp trên, đi sâu vào những hạn chế, khuyết điểm tạo sự chuyển biến tích cực, rõ nét. Đa dạng hình thức giáo dục, rèn luyện, đồng thời lấy thực tiễn, sự chuyển biến của tổ chức để đánh giá sự trưởng thành của CBĐV.

Ba là, đề cao tinh thần cầu tiến mỗi cán bộ, đảng viên phát huy tích cực chủ động trong tự rèn luyện, tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

Mỗi CBĐV phải thực sự tích cực, chủ động, kiên trì, học hỏi; tích cực, tự giác trong thực hiện nề nếp, chế độ sinh hoạt đảng, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, chấp hành nghiêm sự phân công của tổ chức; phát huy tính chiến đấu trong tự phê phán những quan điểm tư tưởng sai trái; tự giác trong tự phê bình, tự soi, tự sửa những mặt hạn chế, yếu kém của cá nhân, coi đó là “phương thuốc bổ” trong tự quản lý. Hiện nay, trước sự tác động tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường, những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào đội ngũ CBĐV bằng nhiều con đường và cách thức khác nhau, như: tuyên truyền chạy theo lối sống thực dụng, bất chấp kỷ cương, tự do vô tổ chức, kỷ luật, chạy theo đồng tiền, lối sống buông thả, làm giảm sút ý chí niềm tin trong CBĐV. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, vấn đề có ý nghĩa quyết định là đội ngũ đảng viên phải tự xác định đúng thái độ, trách nhiệm, nhu cầu trong tự học tập, tu dưỡng rèn luyện. Các cấp ủy, tổ chức đảng, đặc biệt là bí thư cấp ủy phải thường xuyên quan tâm theo dõi động viên, tạo điều kiện thuận lợi để đảng viên rèn luyện, phấn đấu trưởng thành; không xem nhẹ hoạt động tự quản lý của đảng viên. Cần đưa kết quả tự quản lý của mỗi đảng viên là một tiêu chí trong xem xét đánh giá, phân loại đảng viên, đánh giá phẩm chất, năng lực của CBĐV.

Bốn là, nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong nội bộ, giữ gìn chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Tự phê bình và phê bình là quy luật, nguyên tắc, chế độ thường xuyên trong tổ chức và sinh hoạt Đảng; là phương pháp để giáo dục, rèn luyện đảng viên, là vũ khí sắc bén để chống những lệch lạc trong nhận thức. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, đảng viên mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”6, cũng như “Ngày nào cũng phải ăn cho khỏi đói, rửa mặt cho khỏi bẩn, thì ngày nào cũng phải tự phê bình cho khỏi sai lầm”7. Vì vậy, phải thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê bình, phê bình ở chi bộ; xây dựng quy định tự phê bình và phê bình; tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho CBĐV rõ mục đích, nội dung, yêu cầu của tự phê bình và phê bình. Từ đó mọi ng­ười học tập lẫn nhau, giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ, sửa đổi cách làm việc tốt hơn, đúng hơn, kịp thời phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn nội bộ của Đảng xây dựng đoàn kết, thống nhất nội bộ.

Thường xuyên quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết, kiên trì, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm CBĐV suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm. Cần phát huy vai trò nêu gương của CBĐV, nhất là người đứng đầu các cấp trong việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương với đẩy mạnh thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mỗi CBĐV có nhận thức sâu sắc, thực hiện có hiệu quả quan điểm, phương châm, chủ trương, giải pháp của Đảng về đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ CBĐV hiện nay.

Năm là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý đảng viên.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên chưa được quan tâm đúng mức; việc rà soát, sàng lọc đảng viên chưa thường xuyên, thiếu cương quyết”8. Công tác quản lý đảng viên là nội dung quan trọng trong xây dựng đội ngũ đảng viên; là cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nắm chắc, đánh giá đúng phẩm chất, năng lực, nhận xét, giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, phân công giao nhiệm vụ và sàng lọc đảng viên, góp phần bảo vệ chính trị nội bộ, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của CBĐV.

Quản lý đảng viên do tổ chức đảng nắm và quản lý chặt chẽ chất lượng từng mặt của đảng viên và cả đội ngũ, bao gồm: quản lý về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, trình độ giác ngộ, quan điểm, lập trường giai cấp, lòng trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, động cơ phấn đấu, rèn luyện, ý chí chiến đấu tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật; thái độ, hành vi đối với những biểu hiện sai trái trong đơn vị; quản lý về trình độ, năng lực công tác,… từ đó có biện pháp giáo dục, rèn luyện, điều chỉnh thái độ, hành vi của mỗi đảng viên để họ tích cực phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Đây là cơ sở để giáo dục, rèn luyện, đánh giá, phân công, giao nhiệm vụ; là cơ sở để sàng lọc, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng, đồng thời phát hiện giới thiệu nguồn cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức vào hàng ngũ của Đảng.

Kết luận

Giáo dục, rèn luyện CBĐV là việc làm thường xuyên, quan trọng của Đảng, là nhân tố quyết định sự tồn vong của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Làm tốt việc giáo dục, rèn luyện CBĐV sẽ tạo được sự chuyển biến thực sự về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách của mỗi người từ trên xuống dưới, từ trong Đảng tới toàn dân để thực hiện được lời căn dặn trong Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”9. Làm được như vậy thì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mãi mãi trường tồn.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 15. H. NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 113.
2, 3, 4, 5, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2021, tr. 229, 262, 190, 229, 190.
6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 279.
7. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 82.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2002, tr. 510.
Tài liệu tham khảo
1. Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiệntự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
2. Nghị quyết s04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
3. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
4. Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về những điều đảng viên không được làm.
PGS. TS. Nguyễn Văn Thắng
ThS. Đỗ Duy Tuấn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng