Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ để thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

(Quanlynhanuoc.vn) – Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã khẳng định, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Ðảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khoa học và công nghệ là yếu tố cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới.
Ảnh minh họa: Dangcongsan.vn.
Đặt vấn đề

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ (KHCN) là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế1. Cụ thể hoá quan điểm của Đại hội lần thứ XIII, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 một lần nữa nhấn mạnh CNH, HĐH đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của KHCN, đổi mới sáng tạo2. Từ những quan điểm trên cho thấy, KHCN là yếu tố cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định thành công của quá trình CNH, HĐH đất nước, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới.

Ứng dụng khoa học và công nghệ để thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Sau hơn 35 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, KHCN được ứng dụng rộng rãi trong mọi hoạt động, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) đưa ra quan điểm, mục tiêu: công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa… hình thành những mũi nhọn phát triển kinh tế theo trình độ tiên tiến của KHCN thế giới4. Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ, phát triển KHCN cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH5.Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: phát triển mạnh mẽ KHCN, làm cho KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thứ tư6. Nghị quyết số 29-NQ/TW đã nhấn mạnh: chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam, tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp7.

Như vậy, để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước thì chúng ta phải làm chủ ứng dụng của KHCN do con người phát minh, nghiên cứu sáng tạo ra, không lệ thuộc vào bên ngoài, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, sử dụng KHCN ở các lĩnh vực, ngành nghề hoạt động.

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ, sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị các cấp, được sự đồng tình, ủng hộ các tầng lớp nhân dân, các ứng dụng KHCN đã được các cơ quan, bộ, ngành từ trung ương đến địa phương triển khai quyết liệt, đồng bộ với nhiều nội dung, hình thức, biện pháp phong phú, đa dạng nhằm tận dụng, khai thác có hiệu quả KHCN để phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp, nhà sản xuất và người dân. Nhiều trung tâm nghiên cứu KHCN với đội ngũ các nhà khoa học giàu kinh nghiệm, tâm huyết, trách nhiệm với Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày đêm nghiên cứu sản phẩm KHCN ứng dụng vào từng lĩnh vực của đời sống con người.

Đảng, Nhà nước có nhiều cơ chế, chính sách ứng dụng KHCN vào đời sống, như: khuyến khích, động viên, tôn vinh các nhà nghiên cứu KHCN có sản phẩm được đưa vào thực tiễn cuộc sống; hỗ trợ doanh nghiệp, nhà máy chuyển giao KHCN; là cầu nối trong liên doanh, liên kết lắp đặt trang thiết bị máy móc trong nước với nước ngoài. Nghị quyết số 29-NQ/TW đánh giá, sau hơn 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm (2011-2020), CNH, HĐH đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Tuy nhiên, ứng dụng KHCN, nhất là thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào các lĩnh vực, ngành nghề để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH còn một số hạn chế, đó là, chuyển giao, ứng dụng KHCN còn chậm, chưa mạnh mẽ, quyết liệt tạo ra những dấu ấn đặc trưng nổi bật cho sự phát triển của các ngành, lĩnh vực cụ thể như công nghiệp nặng, dịch vụ, nông nghiệp chế biến… các trung tâm KHCN hoạt động chưa hiệu quả, chưa phát huy được lợi thế, điều kiện khả năng của mình, còn lệ thuộc vào sự hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước; một số nhà KHCN chưa thật sự tâm huyết, trách nhiệm, đặt lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân lên trên hết, trước hết vì lợi ích quốc gia, dân tộc sáng tạo ra những sản phẩm KHCN và đem vào ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống, lao động sản xuất, kinh doanh phát triển thực sự hiệu quả, đem lại lợi nhuận cho kinh tế – xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chất lượng cuộc sống của người dân.

Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng chỉ rõ, nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động thấp, chậm được cải thiện; năng lực độc lập, tự chủ thấp, phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy CNH, HĐH; doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế; đổi mới sáng tạo và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đặc biệt là mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, ứng dụng KHCN, nhất là thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, đổi mới sáng tạo, thu hút ngày càng nhiều hơn nguồn lực trong và ngoài nước tập trung phát triển các ngành công nghiệp nặng, mũi nhọn tạo thành đột phá chiến lược, phát triển của nền kinh tế quốc dân, tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của quốc gia trên trường quốc tế… ứng dụng KHCN để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đặt ra vừa là yêu cầu, nhiệm vụ mang tính cấp bách trước mắt, vừa là vấn đề chiến lược lâu dài, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Nghị quyết số 29-NQ/TW đặt ra mục tiêu, lộ trình, quá trình CNH, HĐH phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ trí thức và doanh nhân Việt Nam.

Một số biện pháp đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Một là, đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương đối với việc ứng dụng KHCN vào các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất – kinh doanh, trọng tâm là công nghiệp nặng.

Nghị quyết số 29-NQ/TW nhấn mạnh đến việc đề cao vị trí, vai trò của người đứng đầu trong đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Ứng dụng KHCN vào sản xuất – kinh doanh phát triển, nhất là ngành công nghiệp nặng, dịch vụ, nông nghiệp chế biến cần có lộ trình bước đi thích hợp, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn, muốn ứng dụng ngay.

Theo đó, cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương nhận thức sâu sắc đầy đủ tầm quan trọng của việc chuyển đổi, ứng dụng KHCN vào các ngành công nghiệp, dịch vụ; lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, cơ sở, nhà máy, xí nghiệp thuộc phạm vi quản lý mạnh dạn chuyển đổi máy móc thiết bị lỗi thời, lạc hậu, năng xuất, chất lượng kém sang máy móc thiết bị hiện đại, chất lượng sản phẩm cao; đồng hành cùng với doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, địa phương thực hành ứng dụng KHCN; lãnh đạo, chỉ đạo hành động quyết liệt, đồng bộ, kịp thời các biện pháp ứng dụng mạnh mẽ KHCN vào trong đời sống xã hội; các lĩnh vực, hoạt động phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội phải được đổi mới, trong đó, tập trung vào những ngành công nghiệp mũi nhọn, then chốt, có tính chất quyết định tạo nên bước đột phá làm thay đổi diện mạo, bộ mặt của bức tranh kinh tế – xã hội của cơ quan, đơn vị, địa phương. Trong đó, nhấn mạnh, giai đoạn 2031-2045, tập trung nâng cao chất lượng CNH, đẩy mạnh HĐH toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của kinh tế và đời sống xã hội.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về ứng dụng, phát triển KHCN. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, thực hiện tốt các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ KHCN, nhất là chuyên gia đầu ngành, nhân tài trong lĩnh vực KHCN8.

Cụ thể hoá quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW tiếp tục nhấn mạnh, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo phù hợp với thực tế Việt Nam và thông lệ quốc tế. Với tinh thần này, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương tích cực, chủ động phối hợp với các nhà khoa học nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể; phát huy tinh thần sáng tạo, dân chủ của các nhà khoa học; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học, trung tâm nghiên cứu khoa học ứng dụng sản phẩm do cá nhân, tập thể sáng tạo vào thực tiễn; có quy chế hoạt động công khai, minh bạch sản phẩm KHCN được ứng dụng; các sản phẩm KHCN được ứng dụng phải thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm chi phí, phục vụ hữu ích cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội, kết cấu giao thông hạ tầng.

Trên cơ sở cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đơn vị, địa phương căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể xây dựng, ban hành kế hoạch ứng dụng KHCN phù hợp, hiệu quả, phát huy được điều kiện, lợi thế để khơi dậy ý chí, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; những cơ chế, chính sách ứng dụng KHCN vào thực tiễn cuộc sống có tính đặc thù, kích thích được sự phát triển đi lên của cơ quan, đơn vị, địa phương, đem lại các điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư, giải quyết việc làm cho người lao động, bình quân GDP/người được nâng lên, giảm thiểu những tác nhân bất lợi tác động đến tình hình mọi mặt của cơ quan, đơn vị, địa phương; chú trọng đến việc ứng dụng KHCN vào thực hiện chuyển đổi số, giảm thiểu thủ tục rườm rà, không cần thiết, hướng tới thao tác nhanh, gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với các tầng lớp nhân dân.

Ba là, tập trung phát triển một số ngành KHCN mũi nhọn, trực tiếp giải quyết vấn đề cấp bách cho đất nước.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: phát triển một số ngành KHCN mũi nhọn, trực tiếp giải quyết các vấn đề cấp bách, phù hợp với điều kiện, nguồn lực của đất nước9. Theo đó, ở các cơ quan, đơn vị, địa phương cần xác định rõ những ngành công nghiệp mũi nhọn, then chốt để tập trung đầu tư, nghiên cứu ứng dụng KHCN; tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao ở những ngành công nghiệp mũi nhọn đó; xây dựng môi trường nghiên cứu, ứng dụng KHCN linh hoạt, sáng tạo khơi dậy những ý tưởng mới của đội ngũ những nhà KHCN; huy động các nguồn lực, đặc biệt là cơ sở vật chất, kinh phí cho việc ứng dựng KHCN vào sản xuất, kinh doanh; kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm KHCN được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống của cơ quan chức năng lực lượng chuyên môn có liên quan; tăng cường liên doanh, liên kết với nước ngoài trong hợp tác nghiên cứu ứng dụng KHCN để phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh; tiếp thu, kế thừa và phát triển có chọn lọc kinh nghiệm, phương pháp nghiên cứu ứng dụng KHCN vào khai khoáng, sản xuất các linh kiện máy móc, thiết bị để giảm chi phí nguyên liệu đầu vào của thị trường Việt Nam…

Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ xác định nêu trên, nhân tố hàng đầu tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương; phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đổi mới sáng tạo và dám chịu khó khăn, gian khổ và dám chịu trách nhiệm trước tổ chức về những quyết định của mình; xây dựng bầu không khí làm việc dân chủ, khoa học cho mọi người, tôn trọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ, công chức, viên chức và người dân, từ đó có điều chỉnh, bổ sung hợp lý, khoa học giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW và Nghị quyết Đại hội của các cấp mình đã đề ra.

Kết luận

Nghị quyết số 29-NQ/TW xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030: Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đời sống của Nhân dân được nâng cao. Hơn lúc nào hết, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương hết lòng, hết sức vì sự nghiệp cách mạng chung của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, phát huy tinh thần cống hiến, đổi mới sáng tạo, có như vậy, ứng dụng KHCN vào thực tiễn cuộc sống mới đem lại hiệu quả thiết thực. Quá trình CNH, HĐH đất nước diễn ra nhanh hay chậm, chất lượng hay không chất lượng phụ thuộc rất lớn vào ứng dụng KHCN trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là ngành công nghiệp của đất nước. Đó chính là lộ trình, bước đi vững chắc, hiệu quả và quyết đoán vì dân, vì nước của người đứng đầu các cấp trong ứng dụng KHCN thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước.

Chú thích:
1,8,9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.140,142,140.
2,7. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) về đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập. Tập 46, phần II. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr. 367.
4. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, tr. 545.
5. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội IX). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, tr. 929.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIVăn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.119.
TS. Bùi Xuân Dũng
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh