Xây dựng phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giáo dục, đào tạo học viên ở các nhà trường quân đội

(Quanlynhannuoc.vn) – Sự gắn bó giữa lý luận với thực tiễn là đặc điểm nổi bật của phong cách Hồ Chí Minh và được thể hiện rõ nét trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của Người. Đặc điểm nổi bật trong phong cách gắn lý luận với thực tiễn Hồ Chí Minh là luôn dựa trên thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, hướng đích là độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, đất nước và con người Việt Nam. Chính từ những đặc điểm nổi bật đó đã làm cho phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Hồ Chí Minh vừa có tính dân tộc, vừa có tính thời đại, mang những giá trị phổ biến, bền vững và ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
Ảnh minh họa (tư liệu)
Phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát luận điểm mang tính quy luật: “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành”1. Từ thực hành đấu tranh cách mạng mà rút ra các kinh nghiệm thực tiễn và từ các kinh nghiệm thực tiễn đó lại khái quát hóa, hệ thống hóa nâng lên thành lý luận. Mối quan hệ lý luận và thực tiễn là quan hệ biện chứng, vừa thống nhất với nhau, vừa mâu thuẫn lẫn nhau và thường xuyên chuyển hóa cho nhau, bổ sung cho nhau, bảo đảm cho cả lý luận và thực tiễn cùng phát triển. Khi nghiên cứu những luận điểm của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy chứa đựng trong đó cả những giá trị lý luận sâu sắc và cả những kinh nghiệm rất hiện thực.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thống nhất giữa lý luận với thực tiễn thì “Trước hết, ta phải hiểu lý luận là gì?”2. Người đã tự trả lời cho câu hỏi này như sau: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”3. Như vậy, thực tế là nguồn gốc và cũng là mục đích của lý luận. Lý luận có chức năng thế giới quan, phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn của con người. Hồ Chí Minh chỉ ra vai trò của lý luận như sau: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”4.

Trong khi đề cao vai trò của lý luận, Hồ Chí Minh đồng thời cũng nghiêm khắc phê phán những biểu hiện của bệnh chủ quan, chứng kém lý luận, coi khinh lý luận, hoặc lý luận suông. Người nói: “Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”5. Có hai khuynh hướng tách rời lý luận với thực tiễn, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, hạ thấp vai trò của kinh nghiệm thực tiễn, hoặc khuynh hướng quá nhấn mạnh vai trò của kinh nghiệm thực tiễn, hạ thấp vai trò của lý luận. Do đặc điểm của cách mạng Việt Nam, trong thời kỳ kháng chiến, phần đông cán bộ của chúng ta đều xuất thân từ nông dân và những người lao động tay chân, chủ yếu được trưởng thành từ phong trào thực tiễn, ít được học hành. Do đó, các thế hệ cán bộ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến thường có kinh nghiệm thực tiễn rất phong phú nhưng trình độ lý luận thường bị thiếu hụt. Bên cạnh đó, một số cán bộ được học hành, có trình độ hiểu biết về lý luận nhưng vì những lý do khác nhau mà không vận dụng được lý luận vào thực tiễn. Đó là những nguyên nhân dẫn đến sự tách rời lý luận với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những biểu hiện tách rời lý luận với thực tiễn trênmọi phương diện. “Chỉ thực hành mà không có lý luận cũng như có một mắt sáng, một mắt mù”6. Ngược lại “Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”7. Chỉ khi nào thống nhất giữa lý luận với thực tiễn thì “mới thành người cán bộ hoàn toàn”8. Người nhấn mạnh: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”9.

Xây dựng phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Hồ Chí Minh trong giáo dục, đào tạo học viên ở các nhà trường quân đội

Sự vận động phát triển của lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục là hai mặt của một quá trình luôn phải tương thích với nhau, hỗ trợ cho nhau, chi phối lẫn nhau. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng phong cách gắn lý luận với thực tiễn của Hồ Chí Minh trong giáo dục – đào tạo, trong những năm qua các nhà trường quân đội (NTQĐ) đã thường xuyên quan tâm đổi mới nội dung, chương trình giáo dục – đào tạo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới nhằm hiện thực hóa phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”10, đã thu được những kết quả quan trọng, rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích. Song, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định: số ít học viên khả năng chuyển hóa, vận dụng lý luận trong hoạt động thực tiễn và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn chưa nhuần nhuyễn; đảm nhiệm chức trách, nhiệm vụ ở đơn vị còn lúng túng, chưa tự tin. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của bản thân và đơn vị. Để nâng cao chất lượng gắn lý luận với thực tiễn trong giáo dục – đào tạo học viên ở các NTQĐ hiện nay cần tập trung thực hiện tốt một số biện pháp chủ yếu sau:

Một là, giải quyết mi quan hệ giữa lý luận với thực tiễn trong chương trình, nội dung đào tạo.

Thực tiễn đổi mới giáo dục và đào tạo của các NTQĐ những năm qua cho thấy, việc xác lập chương trình, nội dung đào tạo là vấn đề rất quan trọng. Điều đó trước hết nảy sinh từ yêu cầu ngày càng cao, toàn diện của mục tiêu đào tạo nhằm theo kịp sự phát triển của xã hội và quân đội. Giai đoạn đào tạo ở nhà trường có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, bởi vì nó cung cấp cho người cán bộ những kiến thức cơ bản, có hệ thống, những kỹ xảo, kỹ năng cần thiết và phương pháp tư duy để làm nền tảng giúp cho người cán bộ có thể tự học, tự phát triển để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, giải quyết những vấn đề của thực tiễn nghề nghiệp, nếu công tác đào tạo, bồi dưỡng ở nhà trường hạn chế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ ở đơn vị.

Sự biến đổi không ngừng của thực tiễn đơn vị bao giờ cũng đặt ra yêu cầu mới về kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, phương pháp, tác phong công tác của người cán bộ. Song, trong quá trình đào tạo, nhà trường không thể trang bị đầy đủ, cụ thể, kịp thời những vấn đề thực tiễn mới, do sự biến đổi của tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội và đời sống xã hội. Đặc biệt sự tăng trưởng nhanh chóng của kho tàng tri thức trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức, cuộc cách mạng trong lĩnh vực khoa học quân sự. Trong khi đó, thời gian đào tạo tại trường bị giới hạn, không thể tăng thêm thậm chí có khi phải rút ngắn lại. Điều này dẫn đến nảy sinh mâu thuẫn cần phải giải quyết giữa thời gian đào tạo ngày càng chặt chẽ và hiệu quả đào tạo tối ưu với yêu cầu mới đối với người cán bộ mà các NTQĐ có nhiệm vụ đào tạo về năng lực trí tuệ, năng lực tư duy lý luận và tổ chức thực tiễn các hoạt động quân sự. Điều đó đòi hỏi phải nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong xây dựng chương trình, nội dung đào tạo để có thể theo kịp với yêu cầu của tình hình thực tiễn, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Viêt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho người học sau khi tốt nghiệp có thể thích ứng được ngay với chức trách, nhiệm vụ của người cán bộ trong quân đội, không bị bỡ ngỡ trước thực tiễn xã hội, hoạt động quân sự đa dạng, phong phú.

Để giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin tăng lên nhanh chóng và thời gian đào tạo có hạn cần xác định hợp lý khối lượng kiến thức cơ bản, kiến thức cơ sở, kiến thức chuyên ngành; kết hợp đào tạo theo diện rộng, đồng thời chuyên môn hóa hợp lý ngay trong quá trình đào tạo, bảo đảm cho người học là một chuyên gia trong một lĩnh vực cụ thể, có đủ kiến thức, năng lực thích ứng được những biến động do sự phát triển của khoa học và thực tiễn, cần xác lập phương án tối ưu kết hợp giữa dạy học lý thuyết với dạy học thực hành trong quá trình đào tạo; giữa nâng cao kiến thức, truyền thụ kinh nghiệm với rèn luyện kỹ năng hành động cho người học phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của họ sau khi tốt nghiệp.

Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn trong hình thức, phương pháp dạy học, giáo dục.

Hình thức tổ chức và phương pháp dạy học, giáo dục của các NTQĐ phải sát với thực tiễn hoạt động quân sự nói chung và thực tiễn nghề nghiệp của người học nói riêng. Các hình thức, phương pháp dạy học phải giúp cho học viên rèn luyện về trí tuệ, thể lực, tâm lý, tạo ra sự cân đối, hài hoà giữa nắm vững lý thuyết các môn học với rèn luyện kỹ năng thực tập, thực hành. Tập cho học viên biết vận dụng lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tiễn và thực hành tay nghề. Cần khắc phục lối dạy học giáo điều, sách vở, tách rời lý thuyết với cuộc sống xã hội và hoạt động quân sự hoặc kinh nghiệm chủ nghĩa, thực dụng trong quá trình dạy học, giáo dục. Theo quan điểm đó, việc đổi mới các hình thức, phương pháp dạy học cần theo phương hướng kết hợp bồi dưỡng kiến thức với giáo dục tư tưởng và nâng cao năng lực hành động, cần giải quyết thích đáng mối quan hệ giữa lý thuyết với thực hành trong toàn bộ chương trình đào tạo cũng như trong từng chủ đề huấn luyện – giáo dục.

Hiện nay các NTQĐ đang vận dụng hệ thống các hình thức, phương pháp dạy học: bài giảng, tự học, trao đổi, thảo luận, học nhóm, học thực hành, thực tập tại đơn vị, tham quan, báo cáo chuyên đề, báo cáo thực tế nghiên cứu khoa học của học viên, kiểm tra, thi tốt nghiệp, bảo vệ khóa luận… Mỗi hình thức dạy học có cấu trúc riêng nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất nhằm thực hiên mục tiêu đào tạo. Vì vậy, trong chương trình, nội dung từng môn học cũng như trong từng chủ đề bài giảng, trong trao đổi, thảo luận, thực hành, thực tập, tập bài, thi kiểm tra, nghiên cứu khoa học, làm khóa luận tốt nghiệp cần xác định rõ những vấn đề liên hệ vận dụng thực tiễn. Các hình thức học thực hành, thực tập có vai trò cực kỳ quan trọng không chỉ đối với các môn học ứng dụng mà cả đối với các môn lý luận cơ bản. Cần phải làm cho các hình thức này thực sự giúp học viên tìm thấy con đường vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống thực tiễn, củng cố, trau dồi và mở mang kiến thức, rèn luyện cho mình kỹ năng nghề nghiệp và phong cách. Muốn vậy, các giờ học thực hành, các bài tập, các lần thực tập phải được xây dựng một cách chu đáo, bảo đảm giúp học viên bổ sung và làm sâu sắc hơn kiến thức lý thuyết, tạo lập cho họ có khả năng biết giải quyết độc lập các nhiệm vụ gắn liền với nghề nghiệp tương lai của người cán bộ.

Cần tăng cường các báo cáo thực tế, nói chuyện chuyên đề, tham quan. Thực tiễn cho thấy, hình thức này có tác dụng không nhỏ đối với việc củng cố, nâng cao trình độ kiến thức, truyền thụ kinh nghiệm cho người học. Trong điều kiện lượng thông tin tăng lên vô cùng nhanh chóng cần thực hiện tốt việc cập nhật thông tin, cập nhật những vấn đề thực tiễn nóng hổi, tổng quát, những kinh nghiệm thực tiễn mới nhất đã được tổng kết vào các hình thức tổ chức dạy học và giáo dục. Cần kiên quyết gạt bỏ lối giảng dạy, truyền đạt những kiến thức theo kiểu “làm cỗ sẵn”, còn người học tiếp thu một cách thụ động, không chịu tích cực động não, khám phá kiến thức. Phải thúc đẩy người học phát huy tính tích cực, chủđộng sáng tạo, độc lập nghiên cứu, tìm tòi, phân tích các sự kiện, hiện tượng, quá trình, khái quát hóacác sự kiện, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra có căn cứ khoa học, trong học tập, đối với người học, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập”11, đồng thời “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng”12. Đối với đội ngũ nhà giáo cần phải phấn đấu thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các thầy giáo, cô giáo phải  tìm cách dạy. Dạy cái gì, dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước”13.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa các nhà trường với đơn vị.

Trong mối quan hệ với nhà trường, ở phương diện giáo dục và đào tạo thì đơn vị là một nhân tố có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành. Đơn vị là trường học thực tiễn đánh giá, khảo nghiệm kết quả đào tạo cán bộ của các NTQĐ. Thông qua việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ mà phát hiện những cái còn thiếu về kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng để kiến nghị với các NTQĐ bổ sung, điều chỉnh chương trình nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo. Thực hiện tốt sự phối hợp chặt chẽ giữa các NTQĐ và đơn vị trong việc đánh giá khách quan, toàn diện chính xác kết quả đào tạo. Đây là khâu rất quan trọng  trong công tác cán bộ ở đơn vị, có liên quan đến công tác đào tạo. Việc nhận xét, đánh giá phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ ở đơn vị phải khách quan, trung thực trên cơ sở nắm vững tiêu chuẩn cán bộ, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực.

Thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các NTQĐ với các đơn vị trong việc tổ chức các lớp tập huấn, biên soạn giáo trình, tài liệu, cử giảng viên, cán bộ đi dự nhiệm. Hằng năm, các nhà trường cần tổ chức các đoàn đi nghiên cứu, thâm nhập thực tế các đơn vị nhằm phát hiện những bất cập trong công tác đào tạo, bồi dưỡng; mời cán bộ đơn vị tham gia các cuộc hội thảo những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác giáo dục và đào tạo, trao đổi, tọa đàm, phổ biến kinh nghiệm thực tiễn, để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, bảo đảm những nội dung trong giáo trình có tính khoa học, bám sát thực tiễn đất nước và Quân đội.

Tổ chức tốt các hội nghị tổng kết thực tiễn công tác giáo dục và đào tạo giữa các NTQĐ với các đơn vị. Thông qua tổng kết thực tiễn, giúp các NTQĐ kiểm nghiệm, nắm được tình hình học viên sau đào tạo, những ưu điểm và khuyết điểm; phát hiện ra những bất cập trong công tác đào tạo, bồi dưỡng để kịp thời bổ sung, hoàn thiện chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo sát với thực tế xây dựng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo đảm phù hợp giữa quá trình đào tạo với sự phát triển của thực tiễn chính trị, xã hội, quân sự. Đặc biệt chú trong nội dung phối hợp giữa các NTQĐ với các đơn vị trong việc tổ chức cho học viên đi thực hành, thực tập ở đơn vị trong quá trình đào tạo. Cần phải tạo ra bước chuyên biến nhận thức mới của các nhà trường và đơn vị về vai trò, ý nghĩa của thực tập đối với việc rèn luyện tay nghề của học viên theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo, khắc phục tư tưởng thờ ơ, thiếu trách nhiệm, coi thường tác dụng của thực tập tại đơn vị của học viên.

Như vậy, để tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo học viên ở các NTQĐ, đòi hòi phải tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, trong đó, một trong những vấn đề rất quan trọng là nhận thức đúng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn trong quá trình giáo dục và đào tạo. Đây là quá trình đòi hòi sự vào cuộc của nhiều lực lượng, không chỉ mang tính giải pháp tạm thời, mà nó thực sự có ý nghĩa chiến lược xuyên suốt.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 120.
2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 273, 273, 273 – 274, 274, 315, 274, 274.
9, 11, 12. Hồ Chí Minh, Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 95, 98, 98.
10. Chỉ lệnh số 971/CT-TM ngày 04/12/2020 của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam về công tác quân sự, quốc phòng năm 2021.
13. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 291.
Lê Phi Hùng
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng