Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1948. Xuyên suốt nội dung lời kêu gọi, Người đã xác định mục đích, phương châm, cách thức tiến hành phong trào thi đua yêu nước. Bài viết làm rõ nội dung cơ bản trong tư tưởng của Người thể hiện rõ nhất ở “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”; đánh giá thực trạng phong trào thi đua yêu nước hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ảnh minh họa (danvan.vn).
Đặt vấn đề

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề thi đua yêu nước (TĐYN). Tư tưởng Hồ Chí Minh về TĐYN là hệ thống quan điểm được hình thành trên cơ sở tiếp thu, vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin về thi đua, thi đua xã hội chủ nghĩa, về vai trò của quần chúng và truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc, cùng đường lối, thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản thân Người đã có rất nhiều bài nói, bài viết đề cập đến vấn đề thi đua ái quốc, khen thưởng và cơ sở lý luận, quan điểm về TĐYN được hình thành. Nhân dịp kỷ niệm Ngày toàn quốc kháng chiến (ngày 11/6/1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”và cho đến nay Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước

Quan điểm về thi đua của Người đã nâng lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Theo Người, thi đua là một trong những biện pháp của quá trình vận động cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc, rộng lớn, thi đua không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân con người, nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, làm cho già, trẻ, gái, trai và các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội đều hướng tới mục đích chung. Thi đua để mọi người đều làm việc tốt hơn, nhiều hơn.

Người nhấn mạnh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”1. Thi đua ái quốc do Người khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo đã trở thành phong trào hành động cách mạng sôi nổi, rộng khắp, lôi cuốn mọi tầng lớp Nhân dân tham gia. Các phong trào thi đua, như: “Hũ gạo kháng chiến”; “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp; “Gió Ðại Phong” trong nông nghiệp; “Cờ ba nhất” trong lực lượng vũ trang; “Hai tốt” trong trường học; “Thầy thuốc như mẹ hiền” trong ngành Y tế; “Ba cải tiến” trong các cơ quan; “Ba đảm đang” trong phụ nữ; “Ba sẵn sàng” trong thanh niên; “Vì miền Nam ruột thịt”… góp phần quan trọng làm nên chiến thắng trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc của đất nước.

Tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua qua các bài viết, đặc biệt “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” như một lời hiệu triệu để phát động một phong trào quần chúng rộng lớn nhằm kháng chiến, kiến quốc thành công, đồng thời, thể hiện những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về tổ chức, lãnh đạo một phong trào cách mạng. Đó là quan điểm về vai trò quyết định của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, về đoàn kết toàn dân. Thi đua còn là biểu hiện của lòng yêu nước, là tình cảm của mỗi con người Việt Nam đối với Tổ quốc, quê hương; lấy thi đua làm động lực để phát huy lòng yêu nước, làm cho lòng yêu nước được thể hiện bằng hành động thực tế trong lao động sản xuất, trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và ngược lại, lấy lòng yêu nước để nâng cao hiệu quả thi đua.

Nội dung cơ bản trong “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thứ nhất, mục đích TĐYN nhằm phục vụ toàn thể nhân dân nhằm làm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Thi đua là để thực hiện tốt nhiệm vụ chủ yếu của mỗi thời kỳ cách mạng trong tình hình và điều kiện lịch sử cụ thể, nhằm “để gây: Hạnh phúc cho dân”2. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nêu rõ TĐYN là để: “Diệt giặc đói. Diệt giặc dốt. Diệt giặc ngoại xâm”3. Mục đích trước mắt của thi đua ái quốc là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm, làm cho toàn dân đủ ăn, đủ mặc; toàn dân biết đọc, biết viết; bộ đội có đầy đủ lương thực, khí giới để diệt ngoại xâm, toàn quốc sẽ thống nhất, độc lập hoàn toàn. Mục đích lâu dài của thi đua ái quốc là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.

Thứ hai, TĐYN là việc làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu và tự nguyện  đóng góp vào công việc chung của đất nước. Người nêu rõ: “Cách làm là: Dựa vào: Lực lượng của dân. Tinh thần của dân”4. Người đã thấm nhuần tư tưởng của các bậc tiền nhân “lấy dân làm gốc”, tư tưởng này một lần nữa được Người khẳng định và đề cao. Nhân dân là lực lượng đông đảo nhất – tin vào lực lượng, trí tuệ của Nhân dân, chăm lo cho cuộc sống vật chất, tinh thần của Nhân dân là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhân dân. Hưởng ứng “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước đã dấy lên phong trào thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc lập công sôi nổi, rộng khắp, người người thi đua, nhà nhà thi đua, ngành ngành thi đua.  Phong trào TĐYN trở thành động lực mạnh mẽ tạo ra thế và lực mới – cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn ta giành thế chủ động trên chiến trường. Tư tưởng về thi đua ái quốc trong Lời kêu gọi là yêu cầu cụ thể đối với phong trào thi đua thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thể hiện tư tưởng chung của Người về TĐYN trong mọi thời kỳ cách mạng là tất cả mọi người đều tự nguyện, hăng hái, tích cực thi đua đóng góp vào công việc chuyng của đất nước.

Thứ ba, TĐYN là trách nhiệm của toàn dân, không phân biệt tầng lớp, địa vị, giới tính, nghề nghiệp, tôn giáo, lứa tuổi… Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Người kêu gọi “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”5. Từ tính chất toàn diện của cuộc kháng chiến, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân người yêu nước đều thi đua trong công việc của mình: làm nhanh hơn, nhiều hơn, tốt hơn, hiệu quả hơn.

Thứ tư, phát huy sức mạnh của mọi người dân trong các phong trào TĐYN. Theo Người, ai cũng có thể thi đua tùy theo sức lực của mình: “Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc. Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn. Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp. Đồng bào công nông thi đua sản xuất. Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh. Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự Nhân dân. Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng. Nói tóm lại, ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến quốc”6. Mỗi người mỗi việc khác nhau: trẻ có việc của trẻ, già có việc của già, người giàu, trí thức, nông dân, bộ đội, dân quân… mỗi lĩnh vực, lứa tuổi, nghề nghiệp song tất cả có quan hệ hỗ trợ nhau, đều là công việc phục vụ kháng chiến, xây dựng đất nước.

Thứ năm, TĐYN để phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả công tác, xây dựng những nhân tố tiên tiến; “nâng đỡ những người kém cỏi” và loại trừ phần tử lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của sản xuất, của tiến bộ xã hội. Qua phong trào thi đua, mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia, gắn bó, lăn lộn với cuộc sống thực tiễn, tôi luyện và trưởng thành. Nhờ có phong trào thi đua mà Nhân dân ta không những nâng cao năng suất, mà còn gạt bỏ dần những thói hư, tật xấu của chế độ cũ; phát huy đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc; góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, đời sống mới.

Thực hiện “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Những thành tựu đạt được trong thời gian qua trên tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đều có sự đóng góp tích cực từ những phong trào TĐYN. Các phong trào thi đua đã bám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, thi đua lập thành tích nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, ngành, địa phương… Trên khắp cả nước, các ngành, các cấp, các địa phương phát động những phong trào thi đua sôi nổi, hiệu quả, thiết thực tiếp tục góp phần vào công tác an sinh xã hội, phát triển kinh tế – xã hội.

Những năm đổi mới, Đảng đã đề ra khẩu hiệu thi đua: “Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhiều phong trào đã được phát động và thực hiện có hiệu quả, như: “Xóa đói, giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” … Và gần đây là cả nước đang tập trung triển khai và thực hiện có hiệu quả các phong trào lớn: “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau”,“Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”; hay mô hình thi đua: “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP); mô hình “Xây dựng khu nông thôn mới kiểu mẫu”;… Nhìn chung, các phong trào thi đua đã gắn bó mật thiết với quyền và lợi ích của người dân, góp phần vào những thành tựu quan trọng phát triển kinh tế – xã hội, trong bảo vệ Tổ quốc.

Nhiều bộ, ban, ngành, địa phương đã có cách làm hay, sáng tạo, thiết thực, hiệu quả, huy động được nhiều nguồn lực xã hội và của Nhân dân vào xây dựng quê hương, đất nước, tạo ra khí thế thi đua sôi nổi, lan tỏa rộng khắp. Qua thực tiễn các phong trào thi đua, đã xuất hiện ngày càng nhiều gương người tốt, việc tốt, gương điển hình tiên tiến trên mọi lĩnh vực và khắp mọi miền của Tổ quốc. Đến nay, phong trào TĐYN đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngày càng đi vào thực chất, bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và của các ban, bộ, ngành, địa phương.

Nhiều phong trào thi đua đã mang lại những kết quả tích cực, như: phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” đã được phát động rộng khắp, về đích trước gần 2 năm với gần 53% số xã và trên 16% số huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; phong trào cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở tạo chuyển biến tích cực, hướng tới nền hành chính phục vụ người dân… Nhiều tấm gương sáng trong các phong trào thi đua đã được vinh danh: trên 110.000 trường hợp được Thủ tướng Chính phủ khen thưởng, trong đó khen thưởng nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, tỷ lệ khen chuyên đề, đột xuất chiếm 8,79% và khen thưởng công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp chiếm trên 25%7. Điều đó là minh chứng thuyết phục phong trào TĐYN đã thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, trí tuệ, sáng kiến, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.

Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi đua – khen thưởng (TĐKT) cũng còn một số tồn tại, hạn chế nhất định. Một số đơn vị, địa phương chưa thực sự quan tâm và chỉ đạo sát sao phong trào TĐYN và công tác khen thưởng. Không ít phong trào thi đua được phát động còn mang tính hình thức, chưa toàn diện, thiếu chiều sâu, chưa thu hút được nhiều lực lượng tham gia. Nhiều phong trào thi đua chưa phổ biến sâu rộng trong Nhân dân, các gương điển hình tiên tiến chưa được chăm lo bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến.

Việc khen thưởng qua mỗi phong trào TĐYN cũng còn những điểm bất cập, như: tỷ lệ khen thưởng cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý còn khá cao, khen thưởng cho công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp chưa nhiều nhất là các hình thức khen thưởng bậc cao. Việc biểu dương khen thưởng cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua đôi lúc chưa kịp thời nên chưa khuyến khích, động viên, thúc đẩy các điển hình tiên tiến vươn lên và chưa tạo động lực để phong trào thi đua phát triển mạnh và bền vững. Việc tham mưu đề xuất tổ chức phát động phong trào TĐYN của Hội đồng TĐKT các cấp, các ngành nhìn chung đạt hiệu quả chưa cao…

Nâng cao chất lượng, hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tính lý luận và thực tiễn trong “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là nền tảng để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Để phát huy giá trị  trong “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Người, cần tập trung thực hiện có hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục quán triệt, triển khai, tuyên truyền và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT. Đẩy mạnh quán triệt và triển khai thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác TĐKT, như: Luật TĐKT năm 2022; Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 16/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát động thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội hàng năm và Kế hoạch 5 năm (2021 – 2025) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng… Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, tư tưởng của các cấp ủy đảng, chính quyền, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong triển khai công tác TĐKT. Đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác TĐKT của các thành viên Hội đồng TĐKT các cấp. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về TĐKT, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hiệu quả và đột phá để đổi mới công tác TĐKT.

Hai là, đổi mới nội dung, hình thức các phong trào thi đua theo hướng thiết thực, hiệu quả, hướng về cơ sở, bám sát nhiệm vụ chính trị được giao, gắn với thực tiễn đời sống của Nhân dân. Xây dựng nội dung, tiêu chí thi đua cụ thể, rõ ràng, huy động được sự tham gia đông đảo và sự hưởng ứng tích cực của quần chúng nhân dân. Tổ chức các phong trào thi đua với nội dung thiết thực, cụ thể gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế – xã hội của từng bộ, ban, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị và tiến hành thường xuyên, liên tục. Bên cạnh các phong trào thi đua thường xuyên, cần phát động các phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề. Tiếp tục đổi mới toàn diện, phát huy tinh thần sáng tạo trong tổ chức phong trào thi đua, chú trọng tính hiệu quả, thiết thực, tránh hình thức.

Cùng với đó, tăng cường phối hợp với cơ quan thông tin đại chúng trong phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương người tốt, việc tốt nhằm thúc đẩy, cổ vũ phong trào TĐYN, góp phần tạo động lực thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, kịp thời có hình thức biểu dương và nhân rộng, noi gương như những “ngọn cờ đầu”, những “tấm gương sáng”, tạo được sự lan tỏa sâu rộng. Nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, tạo chuyển biến mạnh mẽ và thực chất, bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch, hướng về cơ sở; quan tâm khen thưởng đối với tập thể nhỏ, tập thể, cá nhân ở vùng sâu, vùng xa, người trực tiếp lao động sản xuất, công tác, chiến đấu…

Ba là, nâng cao vai trò của người đứng đầu trong việc quan tâm sát sao đến việc phát động và triển khai các phong trào TĐYN nói riêng và công tác TĐKT nói chung . Thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua với nhiều hình thức, cách thức linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công bằng trong TĐKT. Chú ý kiểm tra về công tác TĐKT gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Liên kết, tạo sự phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương trong công tác TĐKT.

Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác TĐKT nhằm thực hiện tốt vai trò tham mưu cho các cấp lãnh đạo. Cần đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách và có cơ chế đầu tư thỏa đáng cho công tác này, bảo đảm TĐKT đạt chất lượng, hiệu quả, thiết thực. Chú trọng tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực tham mưu, đề xuất, năng lực thực tiễn, năng lực phát hiện và tổ chức thực hiện của đội ngũ thành viên Hội đồng TĐKT các cấp, cán bộ lãnh đạo quản lý, chuyên trách và kiêm nhiệm làm công tác TĐKT. Xây dựng đội ngũ những người làm công tác TĐKT có phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT, có bề dày kiến thức và kinh nghiệm, gắn bó với quần chúng, phong trào thi đua và đặc biệt hết sức công tâm, khách quan, trong sáng.

Kết luận

Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử, sự nghiệp cách mạng của đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, song vẫn còn đó không ít những khó khăn, thử thách. Đất nước chỉ có thể phát triển nhanh và bền vững khi có được sự cố gắng, ra sức thi đua của toàn dân. TĐYN là động lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới và hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc hiện nay, tư tưởng về TĐKT của Người và“Lời kêu gọi thi đua ái quốc” vẫn luôn là nền tảng, là động lực tạo nên nhiều phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp, lan tỏa mọi mặt đời sống xã hội, mọi tầng lớp nhân dân, góp phần tạo nên động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 407.
2, 3, 4, 5, 6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 256, 256, 256, 256, 257.
7. Phong trào thi đua yêu nước đóng góp trực tiếp vào kết quả vượt mức, toàn diện của đất nước. http://www.thiduakhenthuongvn.org.vn, ngày 20/02/2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới công tác thi đua – khen thưởng.
2. Chỉ thị số 35/CT-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước.
3. Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 16/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát động thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội hàng năm và Kế hoạch 5 năm (2021 – 2025) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
5. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2022.
TS. Lê Thị Hồng Hạnh
Trường Đại học Điện lực