Một số rào cản trong xây dựng chính phủ số ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) Những năm gần đây, phát triển chính phủ điện tử hướng tới xây dựng chính phủ số, kinh tế số xã hội số được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm đã những bước phát triển nhất định. Chính phủ số mang lại sự hài lòng cho người dân, gắn kết chặt chẽ giữa người dân với chính quyền thông qua việc tương tác, chia sẻ, cung cấp thông tin và thực hiện các dịch vụ công trực tuyến một cách hiệu quả. Tuy nhiên, xây dựng chính phủ số còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Bài viết, cần phải chỉ ra những rào cản trong xây dựng chính phủ số ở Việt Nam hiện nay, đồng thời, đưa ra giải pháp khắc phục những rào cản đó.
Ảnh minh họa (internet).
Tổng quan về chính phủ điện tửchính phủ số

Chính phủ điện tử (CPĐT) là chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, phục vụ người dân và doanh nghiệp (DN) tốt hơn. Hay nói một cách khác, đây là quá trình tin học hóa các hoạt động của Chính phủ1. CPĐT, hiểu một cách đơn giản là “bốn không”: họp không gặp mặt, xử lý văn bản không giấy, giải quyết thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán không dùng tiền mặt.

Chính phủ số (CPS) là chính phủ đưa toàn bộ hoạt động của Chính phủ lên môi trường số, không chỉ là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động mà còn đổi mới mô hình hoạt động, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ dựa trên công nghệ số và dữ liệu, cho phép DN cùng tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ. Nói một cách khác, đây là quá trình chuyển đổi số (CĐS) của Chính phủ. CPS là CPĐT thêm “bốn có”: có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có khả năng cung cấp dịch vụ mới nhanh chóng, có khả năng sử dụng nguồn lực tối ưu và có khả năng kiến tạo phát triển; dẫn dắt CĐS quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế – xã hội.

Vậy, điểm khác nhau giữa CPĐT và CPS số là gì?

Một trong những thước đo chính của CPĐT là số lượng dịch vụ hành chính công trực tuyến; còn một trong những thước đo chính của CPS là số lượng dịch vụ hành chính công giảm đi, số lượng dịch vụ công mới mang tính sáng tạo phục vụ xã hội tăng lên, nhờ công nghệ số và dữ liệu2. Phát triển CPS là sự thay đổi nhận thức, từ đó, thay đổi cách làm. Phát triển CPĐT thường nghĩ đến việc tin học hóa, cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến.

Mức độ phát triển CPĐT hay CPS không có nghĩa là làm tuần tự, làm xong CPĐT rồi mới làm CPS hoặc không mang tính phủ định lẫn nhau. Phát triển CPĐT đã hình thành các yếu tố của CPS và ngược lại, phát triển CPS vẫn có đầy đủ các đặc trưng của CPĐT.

CPS sẽ chuyển đổi cách thức phục vụ người dân, DN giảm chi phí, tăng năng suất lao động mang lại sự hài lòng cho người dân. Năm 2020, theo Báo cáo Khảo sát CPĐT của Liên hiệp quốc, Tổng thư ký Liên hiệp quốc ông António Guterres tuyên bố khởi động “Thập kỷ hành động vì sự phát triển bền vững,củng cố các nỗ lực nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) vào năm 2030”3 

Như vậy, xây dựng CPS có thể được hiểu là việc đưa toàn bộ hoạt động của Chính phủ lên môi trường số nhằm mục đích đổi mới mô hình hoạt động, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, từ đó thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ số, dữ liệu lớn; đồng thời cho phép tổ chức, DN, người dân tương tác và tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ trong môi trường số.

Quan điểm và mục tiêu xây dựng chính phủ số Việt Nam

Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT, công nghệ số vào quá trình vận hành nền kinh tế, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển ứng dụng CNTT trong các cơ quan quản lý nhà nước. Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển CPĐT giai đoạn 2019 – 2020, định hướng đến năm 2025; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển CPĐT hướng tới CPS giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030, quan điểm và mục tiêu phát triển CPS đã được làm rõ:

Thứ nhất, phát triển CPS một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát triển CPĐT vào năm 2021 và hình thành CPS vào năm 2025.

Thứ hai, định hướng mở để người dân, DN và tổ chức khác tham gia một cách phù hợp vào hoạt động của cơ quan nhà nước (CQNN), tăng cường minh bạch, nâng cao chất lượng dịch vụ tạo giá trị cho xã hội.

Thứ ba, CQNN mở dữ liệu và cung cấp dữ liệu mở phục vụ phát triển CPS, kinh tế số, xã hội số. CQNN kết nối, chia sẻ dữ liệu để người dân chỉ phải khai báo, cung cấp dữ liệu một lần cho CQNN và các đơn vị cung ứng dịch vụ công thiết yếu.

Thứ tư, nền tảng là giải pháp đột phá, kết hợp mô hình triển khai tập trung, tuân thủ khung kiến trúc CPĐT Việt Nam và kiến trúc của các bộ, ngành, địa phương. Phát triển các nền tảng theo hướng cung cấp dịch vụ đồng bộ, thông suốt có thể sử dụng ở mọi lúc, mọi nơi, các nền tảng, quy mô quốc gia phải được làm trước, làm tốt, làm tập trung.

Thứ năm, thị trường trong nước nuôi dưỡng, phát triển sản phẩm công nghệ số “Make in Việt Nam, từ đó vươn ra khu vực và thế giới. Chính phủ chủ động điều phối, quy hoạch, triển khai các hoạt động mang tính định hướng, kiến tạo thị trường với mục tiêu kép vừa phát triển CPS, vừa phát triển DN công nghệ số Việt Nam. Đa dạng về quy mô, hướng tới làm chủ, phát triển các công nghệ lõi, nền tảng mở phục vụ CPS và hình thành hệ sinh thái ứng dụng, dịch vụ Make in Việt Nam.

Việt Nam có chỉ số phát triển CPĐT, CPS ở mức độ cao trên thế giới, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu theo xếp hạng của Liên hiệp quốc. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025: (1) Cung cấp dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội; (2) Huy động rộng rãi sự tham gia của xã hội; (3) Vận hành tối ưu các hoạt động của CQNN; (4) Giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế – xã hội; (5) Thay đổi đột phá xếp hạng quốc gia.

Như vậy, có thể thấy mục tiêu thiết thực nhất khi xây dựng CPĐT, CPS thì người dân, DN và các tổ chức có thể dễ dàng sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thủ tục hành chính một cách nhanh chóng, thuận tiện, không giấy tờ, không cần sự hiện diện (nếu pháp luật không yêu cầu); đồng thời, tham gia ý kiến đóng góp cho hoạt động CQNN, phản ánh những vấn đề của xã hội với CQNN và nhận được ý kiến phản hồi về sự tham gia của mình.

Một số rào cản trong xây dựng chính phủ số ở Việt Nam

Bên cạnh những lợi thế về phát triển CPĐT hướng tới CPS, chỉ số phát triển CPĐT của Việt Nam từ năm 2014 – 2020 tăng 13 bậc, từ xếp hạng thứ 99 lên xếp hạng thứ 86 trong 193 quốc gia4, Việt Nam đang gặp phải một số rào cản khi phát triển CPĐT hướng tới CPS, cụ thể:

Một là, về thay đổi nhận thức và tư duy.

Quản trị sự thay đổi và đổi mới sáng tạo còn hạn chế. Chuyển đổi từ CPĐT hướng tới CPS là sự chuyển đổi có tính căn bản: (1) Dịch vụ công trực tuyến trở thành dịch vụ số; (2) Từ người dẫn dắt là giám đốc CNTT thành người đứng đầu tổ chức; (3) Tiếp cận theo hướng dịch vụ trở thành tiếp cận theo hướng dữ liệu; (4) Công nghệ Web và PC thành công nghệ 4.0 là Mobile, điện toán đám mây (Cloud), trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ liệu lớn (IoT); (5) Từ sự tham gia của CQNN thành sự tham gia của Nhà nước, người dân và DN; (6) Cải cách thủ tục hành chính trở thành thay đổi mô hình quản trị; (7) Từ đo lường số lượng dịch vụ công lên online thành số dịch vụ công mới. Vì vậy, nếu rào cản của CPĐT là liên thông, tích hợp thì rào cản của CPS là quản lý sự thay đổi5. CPS chỉ có thể phát huy hiệu quả tốt nhất khi được vận hành bởi những công chức, viên chức và công dân 4.0, nghĩa là song song với thực hiện CPS phải thực hiện công dân số, văn hóa số và kinh tế số.

Về vấn đề an toàn, an ninh mạng chưa thích ứng với quá trình CĐS. Phát triển CPS cũng có những rủi ro không nhỏ đối với cả quốc gia, rủi ro lớn nhất là mất chủ quyền. Khi chính phủ chuyển các hoạt động lên môi trường số, nghĩa là vấn đề an toàn, an ninh mạng là vấn đề sống còn; còn đối với mỗi cá nhân, rủi ro lớn nhất là lọt dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư, những rủi ro đó là một trong những rào cản khiến cho tư duy ngại thay đổi khi tham gia xây dựng, phát triển CPS.

Hai là, về môi trường pháp lý.

Việc hoạch định, tổ chức thực thi chính sách về phát triển CPĐT hướng tới CPS chưa thực sự tốt. Mặc dù chủ trương xây dựng CPĐT đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, ưu tiên phát triển, nhưng đến nay một số vấn đề về thực thi chính sách chưa thực sự được điều chỉnh tạo cơ sở pháp lý cho phát triển CPĐT hướng tới CPS. Đến nay, cơ chế hỗ trợ xây dựng CPĐT hướng tới CPS chưa có quy định rõ ràng, đồng bộ về kết nối, chia sẻ dữ liệu trong hoạt động của CQNN; thiếu sự đồng bộ trong quy định cụ thể về công tác văn thư, lưu trữ điện tử, những giá trị pháp lý của văn bản điện tử và quy định việc sử dụng các văn bản điện tử trong giao dịch hành chính, thanh toán, các chính sách ưu đãi thúc đẩy phát triển, ứng dụng CNTT, công nghệ cuộc các mạng công nghiệp 4.0 vào xây dựng CPS.

Ba là, về nguồn nhân lực số.

Nhận thức và hành động của một số cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) chưa thích ứng với sự thay đổi nhanh của công nghệ số. Thực tế cho thấy, nhận thức chưa đầy đủ, hành động chưa kịp thời là rào cản lớn thuộc về một số CBCCVC nhân vật trung tâm của CPS. Bên cạnh đó, một số CBCCVC ứng dụng CNTT còn hạn chế, thói quen sử dụng văn bản giấy tờ, không chia sẻ thông tin… chưa được khắc phục.

Bốn là, về hạ tầng công nghệ và cơ sở dữ liệu.

Hạ tầng công nghệ và cơ sở dữ liệu hiện còn bất cập, chưa đồng bộ, mặc dù Chính phủ và các bộ, ngành đã đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện trong thời gian qua. Thực tế, để xây dựng CPS cần bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, phát triển hạ tầng số, nền tảng số, bao gồm: tích hợp và chia sẻ dữ liệu, IoT, AI, kết nối dịch vụ số hóa, blockchain, định danh điện tử và cần phải có đủ nguồn lực tài chính.

Một số giải pháp xây dựng chính phủ số ở Việt Nam trong thời gian tới

Để thúc đẩy việc xây dựng CPĐT hướng tới CPS, nền kinh tế số và xã hội số hiệu quả, các bộ, ngành, địa phương cần tập trung tổ chức thực hiện tốt những định hướng mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đề ra, trong đó tập trung vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, thay đổi tư duy, phát huy vai trò của người đứng đầu.

Nâng cao nhận thức về CPS thông qua việc tuyên truyền để từng bước thay đổi thói quen hành vi, tạo sự đồng thuận của các bên về phát triển CPS mà trước hết là lãnh đạo, người đứng đầu Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương. CPS muốn thành công thì phải xuất phát từ quyết tâm và sự vào cuộc từ người đứng đầu tổ chức, sẵn sàng, quyết liệt ứng dụng công nghệ số trong công tác chỉ đạo, điều hành.

Thay đổi tư duy của CBCCVC trong việc xử lý hồ sơ trên môi trường điện tử, số hóa các báo cáo để có thể điều hành dựa trên dữ liệu dùng chung cũng như xây dựng cơ sở dữ liệu của ngành, quốc gia, tăng tính tương tác kết nối, chia sẻ.

Phát huy vai trò của người đứng đầu trong việc cải cách hành chính theo đúng Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách thủ tục hành chính nhà nước giai đoạn 20212030, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành, minh bạch thông tin, lấy người dân, DN làm trung tâm trong xây dựng CPS.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho xây dựng CPS.

Cần tập trung hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ về xây dựng CPĐT, cụ thể: khẩn trương xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các nghị định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu, về định danh và xác thực điện tử; Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân và nhóm nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng; Nghị định mới thay thế Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư và đề án thực hiện nhiệm vụ lưu trữ tài liệu điện tử của CQNN, Nghị định về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử…

Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Giao dịch điện tử, xây dựng Luật CPĐT, Luật CPS và hoàn thiện các văn bản pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư, bảo vệ an ninh cá nhân, văn bản hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp lý phát triển CPĐT dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ: AI, blockchain, IoT, Bigdata.

Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ xây dựng CPS.

Gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng các chuyên gia và nhân sự tham gia xây dựng CPS. Để làm tốt việc này, trước tiên cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCCVC để nâng cao nhận thức và năng lực trong xây dựng, điều hành CPĐT, CPS. Tổ chức đào tạo, tập huấn cho người dân, DN trong khai thác, sử dụng các hệ thống thông tin, dịch vụ công trực tuyến; đồng thời, tạo lập niềm tin đối với công chức, viên chức, người dân, DN thông qua việc hình thành văn hóa số, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Đẩy nhanh việc triển khai cơ chế khuyến khích thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về CNTTtrong và ngoài nước tham gia xây dựng, phát triển CPĐT, CPS. Mặt khác, cần có cơ chế đặc thù trong xã hội hóa đầu tư ứng dụng phát triển CNTT xây dựng CPĐT, CPS.

Ngoài ra, từng bước kiện toàn đồng bộ bộ máy quản lý xây dựng CPS từ trung ương đến địa phương; Ủy ban Quốc gia về CPĐT cần mở rộng chức năng, nhiệm vụ để chỉ đạo thêm nội dung về CĐS, kinh tế số và đô thị thông minh; Ban Chỉ đạo CPĐT, Ban Chỉ đạo chính quyền điện tử của các bộ, ngành, địa phương cần mở rộng thêm các chức năng, nhiệm vụ tương ứng; Bộ Thông tin và Truyền thông đóng vai trò dẫn dắt CĐS quốc gia bao gồm 3 trụ cột CPS, kinh tế số và xã hội số; đơn vị chuyên trách về CNTT của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các sở thông tin và truyền thông cần được kiện toàn về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức để tham mưu, tổ chức triển khai mạnh mẽ CĐS tại các bộ, ngành, địa phương.

Thứ tư, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng.

Đẩy mạnh việc phát triển các nền tảng số quy mô quốc gia cung cấp các dịch vụ cho người dân, DN. Ví dụ, như: nền tảng trao đổi định danh và xác thực điện tử quốc gia; nền tảng ứng dụng trên thiết bị di động cho phép người dân và DN sử dụng mọi dịch vụ, tiện ích trong CPS, kinh tế số, xã hội số mọi lúc, mọi nơi. Phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu các bộ, ngành, địa phương cũng là yếu tố cốt lõi để cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao và cung cấp, mở dữ liệu để triển khai các dịch vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Ứng dụng Cổng Dịch vụ công quốc gia; Cổng dữ liệu quốc gia; các ứng dụng, dịch vụ chuyên ngành, như: ngành Y tế, Giáo dục – đào tạo, Giao thông vận tải, Tài chính, Ngân hàng, Nông nghiệp, Du lịch…

Ngoài ra, cần xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm đã đề ra trong Chiến lược phát triển CPĐT hướng tới CPS giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030.

Kết luận

Xây dựng, phát triển CPĐT hướng tới CPS là xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược. Để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra cần có sự vào cuộc với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò chính phủ kiến tạo để dẫn dắt phát triển kinh tế – xã hội thông qua phát triển kinh tế số và xã hội số sẽ tạo ra một phương thức điều hành mới, một cách làm mới nhằm góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển, ứng dụng CNTT phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; tận dụng tối đa lợi ích của công nghệ số mang lại phát triển đất nước.

Chú thích:
1, 2. Bộ Thông tin và Truyền thông. Cẩm nang chuyển đổi số. H. NXB Thông tin và Truyền thông, 2021, tr. 134 – 135, 138.
3. Tổng quan về Báo cáo khảo sát chính phủ điện tử năm 2020 của Liên hiệp quốc. https://aita.gov.vn, ngày 16/11/2020.
4. Phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia. https://www.moha.gov.vn, truy cập ngày 15/4/2023.
5. Phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tại phiên họp đánh giá kết quả 2 năm triển khai Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 và định hướng phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số giai đoạn mới. https://mic.gov.vn.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết s 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
2. Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về chính phủ điện tử.
3. Luật Giao dịch điện tử năm 2005.
4. Luật Công nghệ thông tin năm 2006.
5. Luật An ninh mạng năm 2018.
6. Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030.
ThS. Đặng Minh Châu
Học viện Cảnh sát nhân dân