Định hướng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hành chính ở các cơ quan địa phương

(Quanlynhanuoc.vn) – Nguồn nhân lực hành chính là một trong những yếu tố quan trọng, mang tính quyết định đến sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Đối với nền công vụ, nguồn nhân lực hành chính là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và là chủ thể của nền hành chính nhà nước. Chất lượng nhân lực hành chính tác động trực tiếp đến sự vận hành của bộ máy hành chính nhà nước. Phát huy sức mạnh công vụ chính là phát huy năng lực thực thi công vụ của đội ngũ nhân lực hành chính. Vì vậy, cần phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức có năng lực, tầm nhìn, khả năng quản lý và thúc đẩy cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt tại các địa phương trên cả nước.
Ảnh minh họa (chinhphu.vn)
Đặt vấn đề

Đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) ở các cơ quan địa phương là chủ thể trực tiếp tham mưu, tổ chức thực hiện, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, đội ngũ CBCC ở địa phương trực tiếp thực hiện chức năng của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn cả nước. Vì vậy, năng lực chuyên môn, đạo đức, văn hóa công vụ, phẩm chất chính trị của đội ngũ CBCC này thể hiện bản chất của Nhà nước và ảnh hưởng trực tiếp đến tình cảm, lòng tin của người dân và doanh nghiệp đối với Nhà nước. Do đó, việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) đội ngũ CBCC tại các địa phương có chuẩn mực phẩm chất, đạo đức công vụ, chính trực, liêm chính công bằng khách quan có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hành chính ở các cơ quan địa phương hiện nay

Công tác ĐTBD CBCC đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu ĐTBD CBCC, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ CBCC lãnh đạo, quản lý các cấp, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ các cấp trong thời kỳ đổi mới. Công tác ĐTBD nhân lực hành chính (NLHC) các cơ quan địa phương về cơ bản đã được thực hiện trên cơ sở các kế hoạch dài hạn gắn với chỉ tiêu, đối tượng, nội dung và thời gian cụ thể. Các bộ, ngành đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện công tác ĐTBD CBCC từng giai đoạn của đơn vị mình. Đại bộ phận CBCC đã qua ĐTBD đều nâng cao được trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác, năng lực quản lý, lãnh đạo và dần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước. Cụ thể:

Thứ nhất, đội ngũ CBCC ở các địa phương được ĐTBD về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học… góp phần nâng cao trình độ, kiến thức toàn diện; cơ cấu, số lượng CBCC có trình độ đại học, sau đại học tăng nhanh; việc bồi dưỡng đạo đức công chức, văn hóa công vụ được đặc biệt quan tâm.

Thứ hai, các cơ sở ĐTBD CBCC trong hệ thống chính trị bảo đảm tốt quy mô và chất lượng ĐTBD; đa dạng hóa việc chiêu sinh đúng đối tượng và phù hợp với quy mô ĐTBD; kết hợp hài hòa giữa đào tạo dài hạn với bồi dưỡng ngắn hạn và trung hạn. Đa dạng các lớp bồi dưỡng khác nhau, như: bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, theo chức vụ, chức danh lãnh đạo, quản lý, theo nhu cầu vị trí việc làm. Phương pháp, loại hình ĐTBD được mở rộng, kết hợp ĐTBD ở trong nước với nghiên cứu, học tập ở nước ngoài thông qua các đề án ĐTBD cán bộ ở nước ngoài. Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của công tác ĐTBD của lãnh đạo các cấp và bản thân đội ngũ CBCC các cơ quan hành chính ở địa phương có sự chuyển biến tốt trên cơ sở nhận thức yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghệ.

Thứ ba, mục tiêu công tác ĐTBD CBCC ngày càng được xác định rõ, khả thi hơn, cả về đối tượng, phạm vi, số lượng và chất lượng. Đối tượng, nội dung ĐTBD CBCC ngày càng đa dạng, phong phú, đi vào chiều sâu và không ngừng được mở rộng, từng bước đáp ứng được nhu cầu của công tác ĐTBD CBCC trong toàn hệ thống chính trị; vừa cung cấp kiến thức cơ bản, toàn diện, vừa chú trọng rèn luyện năng lực tư duy, kỹ năng công tác, khả năng vận dụng vào thực tiễn. Chủ trương, định hướng, quan điểm của Đảng về ĐTBD CBCC được tích cực thể chế hoá, cụ thể hóa và ngày càng hoàn thiện hơn. Công tác ĐTBD CBCC từng bước gắn với tiêu chuẩn đối với từng chức vụ, chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng ngạch, vị trí việc làm và khung năng lực.

Thứ tư, nội dung chương trình, hình thức ĐTBD CBCC đã chú trọng hơn việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới và bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, khung năng lực, sát với yêu cầu nhiệm vụ của từng chức danh. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý ĐTBD trong các cơ sở ĐTBD được quan tâm đổi mới, hoàn thiện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp theo hướng thiết thực, hiện đại; bảo đảm nội dung ĐTBD có tính khoa học, tính hệ thống, tính thời sự.

Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới đối với nguồn NLHC nói chung nhằm hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, công tác ĐTBD nguồn NLHC có những hạn chế nhất định cả về nội dung, phương pháp và tổ chức thực hiện; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực cho nguồn NLHC nói chung, NLHC các cơ quan địa phương nói riêng.

(1) Lãnh đạo các địa phương chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của công tác ĐTBD CBCC; còn thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu quy hoạch dài hạn, chưa đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới. Một số nơi cử CBCC đi học chưa xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ; chưa gắn kết với công tác quy hoạch và hướng bố trí, sử dụng CBCC sau ĐTBD. Một số trường hợp chưa chú ý đến chất lượng, cơ cấu chuyên môn, ngành nghề, lĩnh vực ĐTBD; chưa gắn với ĐTBD theo chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực; chưa chủ động ĐTBD CBCC đủ chuyên môn sâu đáp ứng yêu cầu phát triển ở từng lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực phát triển trọng điểm, những ngành nghề đặc thù.

(2) Việc xây dựng hệ thống văn bản tổ chức thực hiện, chương trình, kế hoạch ĐTBD CBCC ở các cấp, các ngành của địa phương chưa đồng bộ. Các văn bản còn nhiều chồng chéo, đan xen giữa quy định cũ và mới, thậm chí mâu thuẫn, thiếu thống nhất nên quá trình triển khai nhiệm vụ công tác ĐTBD gặp nhiều lúng túng, tính khả thi và hiệu quả chưa cao. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch ĐTBD ở nhiều nơi chưa xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và sự phát triển của ngành. Hiện mới chỉ có quy định về cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, chưa có quy định cụ thể về chế độ học tập, bồi dưỡng hằng năm đối với CBCC nói chung. Có một số quy định chưa hợp lý về điều kiện CBCC được cử đi học sau đại học; về chế độ phụ cấp trong thời gian ĐTBD; về thẩm quyền phê duyệt, ban hành chương trình, tài liệu; về đánh giá chất lượng ĐTBD.

(3) Nội dung một số chương trình ĐTBD CBCC chưa sát thực tế, còn trùng lắp, gây lãng phí lớn và chưa tạo được sự chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả của quá trình; nội dung đôi khi còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa chú trọng ĐTBD kỹ năng, nhất là các kỹ năng mềm, kỹ năng lãnh đạo điều hành, kỹ năng thực thi công vụ, kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế. Nội dung, chương trình ĐTBD CBCC còn chưa bảo đảm tính phù hợp với mục tiêu, đối tượng ĐTBD là NLHC ở các cơ quan hành chính địa phương.

(4) Công tác quản lý ĐTBD CBCC chưa có đổi mới toàn diện và đột phá; kỷ luật, kỷ cương trong ĐTBD CBCC một số nơi còn bị xem nhẹ; chưa xây dựng được quy trình, tiêu chí hiệu quả nhằm gắn ĐTBD với bố trí, sử dụng cán bộ sau ĐTBD. Việc huy động các chuyên gia có năng lực, uy tín trong và ngoài nước tham gia giảng dạy cho các khóa ĐTBD CBCC, đặc biệt đối với các khóa cập nhật kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nâng cao năng lực hội nhập còn hạn chế. Cơ chế phối hợp quản lý học viên giữa cơ sở ĐTBD với cơ quan, đơn vị cử CBCC đi học chưa thành nề nếp, nội dung rèn luyện của học viên chưa được chú trọng, vì vậy, chất lượng ĐTBD CBCC chưa được đánh giá đầy đủ, chủ yếu là sự tự đánh giá của các cơ sở ĐTBD.

(5) Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra trong ĐTBD CBCC còn chưa thường xuyên, thiếu kế hoạch, thậm chí còn buông lỏng. Việc kiểm tra, thanh tra thực hiện đúng, đủ nội dung, thời lượng và chất lượng các khóa bồi dưỡng chưa nghiêm; tình trạng chạy theo số lượng, kế hoạch của các cơ quan địa phương; chạy theo việc “tích lũy” cho đủ chứng chỉ bồi dưỡng, bằng cấp…, của CBCC được cử đi ĐTBD; tình trạng buông lỏng quản lý, vi phạm quy chế, thực hiện chương trình, nội dung ĐTBD ở một số địa phương vẫn tồn tại và chưa được xử lý thích đáng.

Định hướng đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực hành chính ở các cơ quan địa phương

Thứ nhất, trên cơ sở kế hoạch quốc gia về ĐTBD, các địa phương căn cứ thực trạng đội ngũ CBCC; mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, xây dựng và ban hành kế hoạch ĐTBD CBCC ở địa phương. Trong đó, cần tránh tình trạng phân tán, manh mún trong ĐTBD CBCC. Kế hoạch ĐTBD cũng góp phần định hình, tập trung nguồn lực cho các nhóm đối tượng cần ĐTBD.

Thứ hai, lãnh đạo các địa phương cần nhận thức sâu sắc và quán triệt tầm quan trọng, vị trí, vai trò của công tác ĐTBD nguồn NLHC trong tình hình mới; phải thực sự coi công tác ĐTBD CBCC là khâu quan trọng của công tác cán bộ, vừa là nhiệm vụ mang tính chiến lược, vừa là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách, lâu dài; đầu tư cho NLHC ở các cơ quan địa phương là đầu tư cho sự phát triển lâu dài, bền vững.

Thứ ba, cần sớm khắc phục tình trạng một chương trình, tài liệu ĐTBD áp dụng cho nhiều đối tượng. Chương trình ĐTBD cần thiết kế theo hướng mở hơn và động hơn, trong đó có những nội dung chung áp dụng cho các nhóm đối tượng CBCC, đồng thời có những nội dung riêng cho CBCC ở các cơ quan địa phương, ở các chức danh, các vị trí, bảo đảm tính thực tiễn cao hơn của nội dung chương trình ĐTBD. Xây dựng kế hoạch hệ thống hóa các chương trình ĐTBD CBCC cho các cơ quan địa phương hiện nay làm cơ sở cho việc rà soát, cắt bỏ các nội dung trùng lặp trong khung chương trình đào tạo; thực hiện đổi mới căn bản nội dung chương trình ĐTBD cán bộ về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học, quốc phòng – an ninh gắn với chức vụ, chức danh, gắn với vị trí việc làm, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTBD.

Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình ĐTBD theo hướng cập nhật và hiện đại, chú trọng rèn luyện bản lĩnh, kỹ năng, năng lực cho đội ngũ CBCC; nhanh chóng sửa đổi, bổ sung các chương trình, nội dung trùng lặp, không thiết thực, gây lãng phí nguồn lực. Chương trình ĐTBD về quản lý nhà nước phải bảo đảm sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực của cải cách nền hành chính, nâng cao năng lực thực thi công vụ, hoàn thiện kỹ năng hành chính. Đổi mới nội dung, chương trình ĐTBD CBCC phải bảo đảm tính kế thừa, liên thông, khắc phục tình trạng CBCC phải tham gia nhiều khóa học nhưng thiếu hiệu quả.

Thứ tư, các cơ sở tham gia ĐTBD nguồn nhân lực các cơ quan hành chính địa phương cần tập trung đổi mới phương pháp ĐTBD theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học; gợi mở, thảo luận, trao đổi thẳng thắn, đối thoại có trách nhiệm giữa giảng viên và học viên, kết hợp với ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin và các phương tiện hiện đại trong ĐTBD CBCC; giúp học viên hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu, bổ sung, mở rộng và nâng cao kiến thức, rèn luyện phương pháp tư duy, vận dụng giải quyết tình huống thực tiễn, rèn luyện kỹ năng làm việc tập thể, theo nhóm.

Đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả ĐTBD, bảo đảm khách quan, thực chất. Đa dạng hóa các hình thức đánh giá và có sự cân nhắc phù hợp với hình thức ĐTBD như thi vấn đáp, tự luận, thi trắc nghiệm. Nghiên cứu, xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng ĐTBD CBCC.

Kết hợp ĐTBD trong nước với học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ ở nước ngoài, nâng cao năng lực và kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế đối với đội ngũ CBCC. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong ĐTBD CBCC.

Thứ năm, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên phù hợp với nội dung, chương trình đổi mới. Đội ngũ giảng viên phải không ngừng tự học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, vừa là những nhà giáo, nhà khoa học, am hiểu đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thực tiễn của địa phương, của ngành và đất nước, nắm bắt được những vấn đề đang đặt ra trong thực thi chính sách, pháp luật; tích cực tổng kết thực tiễn, có khả năng luận giải được những vấn đề  mà thực tiễn đặt ra.

Tăng cường đội ngũ giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng là cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều kinh nghiệm từ các bộ, ban, ngành, địa phương, các chuyên gia hàng đầu, các doanh nghiệp thành đạt; giảng viên giỏi từ các trường đại học, viện nghiên cứu; tăng cường kỷ luật phát ngôn, kỷ luật lên lớp, ý thức trách nhiệm trong giảng dạy.

Thứ sáu, tăng cường quản lý học viên một cách chặt chẽ và toàn diện, cả trong và ngoài giờ học; phát huy tinh thần trách nhiệm của giảng viên; nâng cao ý thức tự quản của cán bộ lớp và của học viên; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường tính chuyên nghiệp của các đơn vị quản lý học viên; đầu tư, bổ sung, nâng cấp các phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác quản lý như hệ thống camera giảng đường, thiết bị điểm danh vân tay một cách đồng bộ. Lựa chọn người học bảo đảm đúng tiêu chí, không cử người đi học sai đối tượng; tạo điều kiện về thời gian, công việc để học viên yên tâm tập trung học tập; tăng cường trách nhiệm quản lý học viên của cấp ủy, cơ quan cử đi học.

Thứ bảy, kiện toàn hệ thống các cơ sở ĐTBD theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy mô, hình thức ĐTBD; chú trọng chất lượng đội ngũ giảng viên và viên chức quản lý đủ trình độ, năng lực thực thi nhiệm vụ. Tích cực hiện đại hóa cơ sở vật chất – kỹ thuật, đặc biệt hạ tầng công nghệ thông tin, bảo đảm cơ sở ĐTBD đủ điều kiện, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC. Áp dụng công nghệ thông tin trong việc xây dựng, thực hiện kế hoạch ĐTBD, kiểm tra, đánh giá kết quả ĐTBD. Thu hút và đa dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động ĐTBD.

Thứ tám, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với ĐTBD CBCC; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về ĐTBD; chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật trong ĐTBD CBCC. Tập trung thanh tra, kiểm tra những vấn đề nổi cộm, bức xúc, chú trọng thanh tra, kiểm tra về việc thực hiện kế hoạch, chỉ tiêu ĐTBD; các điều kiện bảo đảm chất lượng ĐTBD; việc thực hiện cơ chế tự chủ, việc thực hiện quy chế dân chủ, thực hiện quy chế chuyên môn; về kỷ cương, nề nếp dạy và học trong nhà trường; vấn đề hoạt động liên kết đào tạo, đào tạo tại chức, cấp văn bằng chứng chỉ; công tác thi, đánh giá chất lượng; vấn đề tuân thủ chế độ tài chính, tình trạng sách nhiễu, vòi vĩnh; vấn đề đạo đức, lối sống của học viên và giảng viên trong các cơ sở ĐTBD.

Tổ chức thanh tra, kiểm tra đúng quy trình, quy định, xác định trách nhiệm cụ thể, kết luận rõ ràng, xử lý nghiêm các sai phạm; công khai kết luận thanh tra, kiểm tra, xử lý sai phạm nhằm tạo sức cảnh báo, phòng ngừa đối với cả hệ thống. Người đứng đầu cơ quan quản lý ĐTBD, cơ sở ĐTBD tổ chức tốt việc tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh về những sai phạm, tiêu cực trong công tác quản lý, công tác ĐTBD thuộc thẩm quyền quản lý của địa phương, cơ quan, đơn vị, kịp thời xác minh, làm rõ; chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật giảng dạy và học tập.

Kết luận

Đổi mới, nâng cao chất lượng ĐTBD đội ngũ CBCC theo các định hướng trên cần được lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, các cơ sở ĐTBD cụ thể hóa thành các kế hoạch, giải pháp cụ thể; xây dựng lộ trình tổ chức thực hiện và tạo điều kiện vật chất cần thiết để thực hiện có hiệu quả. Có như vậy mới thực sự tạo ra chuyển biến căn bản về chất lượng ĐTBD đội ngũ CBCC của địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong tình hình mới.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.
3. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
4. Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
5. Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030.
6. Thông tư số 03/2023/TT-BNV ngày 30/4/2023 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số quy định của nghị định số 101/2017 NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/ NĐ-CP của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
TS. Đặng Xuân Hoan
GVCC, Học viện Hành chính Quốc gia