Vận dụng quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức trong bối cảnh hội nhập quốc tế

(Quanlynhanuoc.vn) – Bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngang tầm nhiệm vụ, đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Việc nghiên cứu vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, công chức trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay là hết sức cần thiết.
Ảnh minh hoạ: Internet.
Đặt vấn đề

Công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) nói chung và ĐTBD đội ngũ CBCC lãnh đạo, quản lý các cấp trung ương và địa phương có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế nói riêng được xem là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên mọi mặt của đất nước, xu thế biến đổi nhanh chóng của toàn thế giới và sự phức tạp ngày càng gia tăng trong các mối quan hệ quốc tế.

Để đạt được mục tiêu đề ra, vai trò của ĐTBD kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc cho CBCC là vô cùng quan trọng. Công tác ĐTBD này phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Xây dựng đội ngũ CBCC phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn để đội ngũ ấy hoạt động hiệu lực, hiệu quả góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực. Trong đó, cần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác ĐTBD CBCC theo hướng đào tạo có trọng tâm, trọng điểm để vừa cập nhật kiến thức, phương pháp, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, vừa nâng cao năng lực và khả năng làm việc của cán bộ trong môi trường quốc tế1.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ cho cán bộ, công chức

Nhìn lại công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐTBD năng lực ngoại ngữ (NLNN) cho đối tượng CBCC trong thời gian qua, có thể thấy, Đảng và Nhà nước đã luôn dành một sự quan tâm đặc biệt về bồi dưỡng NLNN cho CBCC trong công tác và hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ CBCC.

Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ghi nhận công tác ĐTBD và cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ CBCC đã được quan tâm hơn, từng bước gắn với chức danh, quy hoạch và việc sử dụng cán bộ. Kế thừa thành quả ấy, Hội nghị Trung ương 7 cũng tổng kết hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp cũng như đánh giá công tác ĐTBD đội ngũ CBCC có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc tốt trong môi trường quốc tế; tuy nhiên về tổng thể, đội ngũ CBCC có số lượng lớn nhưng chưa mạnh. Năng lực của đội ngũ CBCC chưa đồng đều, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Do vậy, nhiều thách thức lớn được đặt ra trong công tác ĐTBD chuyên môn, nghiệp vụ, trong đó có ĐTBD NLNN cho đội ngũ CBCC.

Ngoại ngữ được coi là công cụ chính để giúp các quốc gia hội nhập nhanh hơn trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong quá trình toàn cầu hóa. Ngoại ngữ không chỉ giữ vai trò là công cụ giao tiếp thông thường mà còn được nâng lên như một năng lực, tiêu chuẩn cần thiết để mọi người có thể làm việc trong môi trường quốc tế. Để có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế hiệu quả, bên cạnh kiến thức, kỹ năng chuyên môn, CBCC phải thường xuyên bồi dưỡng và nâng cao năng lực về ngoại ngữ.

Ngoại ngữ là chìa khóa để phát triển của mỗi quốc gia, việc bồi dưỡng, nâng cao NLNN thể hiện rất rõ xu thế hội nhập của mỗi quốc gia. Ngày 15/11/2022, Tổ chức Giáo dục Quốc tế Education First đã công bố chỉ số thông thạo Anh ngữ toàn cầu EF EPI, trong đó Việt Nam đứng ở vị trí 60 trong 111 quốc gia2. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn ở mức trung bình so với các quốc gia trên thế giới và khu vực và đòi hỏi cần có sự nỗ lực hơn nữa để cải thiện NLNN đối với người Việt Nam nói chung và CBCC nói riêng khi chúng ta muốn hội nhập phát triển sâu rộng hơn.

Để có thể đạt được kết quả trên, trước hết là nhờ sự quan tâm và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác ĐTBD ngoại ngữ cho CBCC. Ngày 30/8/2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án ngoại ngữ Quốc gia “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008- 2020” (Quyết định số 1400/2008/QĐ-TTg). Đề án đã chỉ rõ mục tiêu đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân để đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam có thể làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoại ngữ là công cụ trợ giúp đắc lực giúp CBCC học tập, nghiên cứu, góp phần tích cực nâng cao trình độ chuyên môn cho nguồn nhân lực, đội ngũ CBCC.

Trong lĩnh vực đào tạo, ngày 15/5/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế đào tạo trình độ thạc sỹ tại Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT, cụ thể với đối tượng học viên cao học tại các cơ sở đào tạo đủ điều kiện tốt nghiệp phải đạt trình độ ngoại ngữ tối thiểu từ bậc 3/6 – Khung NLNN Việt Nam hoặc tương đương trở lên. Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT ngày 04/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sỹ yêu cầu người dự tuyển đào tạo trình độ tiến sỹ phải có các văn bằng, chứng chỉ minh chứng về NLNN, như bằng tốt nghiệp đại học hoặc bằng thạc sỹ học tập bằng tiếng Anh hoặc tiếng nước ngoài khác, Bằng tốt nghiệp đại học các ngành ngôn ngữ nước ngoài, chứng chỉ tiếng Anh TOEFL iBT từ 45 trở lên hoặc Chứng chỉ IELTS từ 5.0 hoặc các chứng chỉ tiếng nước ngoài khác tiếng Anh ở trình độ tương đương.

Về công tác bồi dưỡng, Thông tư số 11/2014/TT-BNV ngày 09/10/2014 của Bộ Nội vụ cũng quy định về chuẩn ngoại ngữ đối với các ngạch công chức hành chính là CBCC chuyên ngành hành chính làm việc trong các cơ quan, tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và đơn vị sự nghiệp công lập. Cụ thể, ngạch chuyên viên cao cấp yêu cầu phải có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tương đương bậc 4 khung NLNN Việt Nam; ngạch chuyên viên chính phải có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tương đương bậc 3; ngạch chuyên viên phải có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tương đương bậc 2; ngạch cán sự phải có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tương đương bậc 1. Bên cạnh đó, Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về ĐTBD CBCC, viên chức cũng nêu rõ ngoại ngữ là một trong những nội dung bồi dưỡng thường xuyên nhằm tran g bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ của CBCC, viên chức.

Để bảo đảm chất lượng đánh giá về NLNN và ngày càng nâng cao hơn về năng lực sử dụng ngoại ngữ của người học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 23/2017/TT-BGDĐT ngày 29/9/2017 về Quy chế thi đánh giá NLNN theo Khung NLNN 6 bậc dùng cho Việt Nam, trong đó quy định rõ về mục đích, nguyên tắc; đơn vị tổ chức thi đánh giá; đối tượng dự thi và đăng ký dự thi, hội đồng thi, hình thức thi; đề thi; tổ chức thi; chấm thi và phúc khảo; duyệt kết quả thi, quản lý cấp phát chứng chỉ, báo cáo và lưu trữ hồ sơ thi; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong thi đánh giá NLNN. Ngày 08/01/2018, Bộ Nội vụ cũng ban hành Thông tư số 01/2018/TT-BNV hướng dẫn một số điều của Nghị định số  101/2017/NĐ-CP; trong Thông tư có đề cập đến quy định về chuẩn ngoại ngữ đối với giảng viên trong các cơ sở ĐTBD CBCC; Giảng viên cao cấp phải có trình độ ngoại ngữ bậc 4 (B2); Giảng viên chính phải có trình độ ngoại ngữ bậc 3 (B1) và Giảng viên có yêu cầu về trình độ ngoại ngữ là bậc 2 (A2).

Phát huy những kết quả đã đạt được của Đề án ngoại ngữ Quốc gia 2020 cũng như nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW để tiếp tục đổi mới, không ngừng nâng cao yêu cầu về NLNN đối với CBCC, ngày 19/11/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1659/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 – 2030” với mục tiêu tăng cường ĐTBD nâng cao NLNN cho CBCC, viên chức để có khả năng sử dụng ngoại ngữ thành thạo trong công việc và làm việc trong môi trường quốc tế. Trong đó, tập trung hơn vào nhóm đối tượng CBCC dưới 40 tuổi để 50% CBCC ở trung ương, 25% CBCC cấp tỉnh, cấp huyện ở địa phương và 60% viên chức, trong đó 50% viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên; 20% CBCC xã, trong đó 15% CBCC lãnh đạo, quản lý cấp xã đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên vào năm 2025. Trong 5 năm tiếp theo, 60% CBCC ở Trung ương; 35% CBCC cấp tỉnh, cấp huyện ở địa phương, 70% viên chức, trong đó 60% viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý dưới 40 tuổi đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên; 30% CBCC xã, trong đó 25% CBCC lãnh đạo, quản lý cấp xã dưới 40 tuổi công tác tại địa bàn hoặc lĩnh vực có yêu cầu sử dụng ngoại ngữ đạt trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên.

Tiếp đến, ngày 30/8/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 23/2021/TT-BGDĐT về quy chế đào tạo trình độ thạc sỹ thay thế cho Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT. Quy chế quy định cụ thể với đối tượng học viên cao học tại các cơ sở đào tạo đạt chuẩn đầu vào về ngoại ngữ tối thiểu từ bậc 3/6 hoặc tương đương và điều kiện tốt nghiệp phải có trình độ ngoại ngữ tối thiểu từ bậc 4/6 hoặc tương đương trở lên. Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT ngày 28/6/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo thay thế cho Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sỹ cũng yêu cầu người dự tuyển đào tạo trình độ tiến sỹ phải có chứng chỉ ngoại ngữ tương đương trình độ bậc 4/6 hoặc các văn bằng, chứng chỉ minh chứng về NLNN, như bằng tốt nghiệp đại học hoặc bằng thạc sỹ học tập bằng tiếng Anh hoặc tiếng nước ngoài khác, bằng tốt nghiệp đại học các ngành ngôn ngữ nước ngoài, chứng chỉ ngoại ngữ ở trình độ tương đương bậc 4/6 trở lên.

Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống căn cứ pháp lý nói trên về quản lý nhà nước trong bồi dưỡng NLNN cho CBCC thể hiện sự góp sức của cả hệ thống chính trị nhằm nâng cao NLNN cho CBCC. Các chủ chương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trên đây đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo và định hướng các cơ quan, đơn vị sử dụng CBCC xác định đúng và đồng bộ về mục tiêu, quy trình và quy định về ĐTBD NLNN cho CBCC. Đồng thời, quá trình hoàn thiện hệ thống pháp lý trên cũng là sự chung sức, đồng lòng, là sự bám sát các xu hướng thay đổi của thực tiễn khách quan và xu thế hội nhập quốc tế kiên định theo định hướng xây dựng nước công nghiệp vào năm 2045 của toàn hệ thống chính trị.

Một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng năng lực ngoại ngữ cho cán bộ, công chức trong giai đoạn mới

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý về tiêu chuẩn, trình độ ngoại ngữ cũng như về ĐTBD NLNN đối với đội ngũ CBCC. Việc hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, trình độ ngoại ngữ cũng như về ĐTBD NLNN đối với đội ngũ CBCC có ý nghĩa hết sức quan trọng. Để đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả làm việc trong môi trường quốc tế, đòi hỏi CBCC phải có kiến thức, kỹ năng chuyên môn giỏi, đạt chuẩn, bắt kịp xu thế thế giới. Việc hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, trình độ ngoại ngữ cũng như về ĐTBD ngoại ngữ đối với đội ngũ CBCC có ý nghĩa tạo cơ sở pháp lý vững chắc, nền tảng căn bản để tổ chức việc ĐTBD nâng cao NLNN cho CBCC hiệu quả hơn.

Thứ hai, tích cực tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn, trình độ ngoại ngữ cũng như về ĐTBD ngoại ngữ đối với đội ngũ CBCC tới các cơ quan, địa phương, tổ chức có liên quan và sâu rộng tới đội ngũ CBCC để cùng ý thức được vai trò, vị trí của ĐTBD ngoại ngữ đối với đội ngũ CBCC trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đồng thời tạo sức mạnh đồng thuận trong toàn hệ thống về một nguồn nhân lực dồi dào tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Việc tích cực phổ biến, tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ nhằm cung cấp thông tin mà còn nhằm thay đổi suy nghĩ, thái độ, từ đó, tạo thành hành động cụ thể trong các tổ chức, đơn vị.

Thứ ba, dựa vào mục tiêu chung để xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện một cách phù hợp cho từng giai đoạn ở từng địa phương cụ thể. Tùy hoàn cảnh thực tiễn từng địa phương và năng lực thực tế về ngoại ngữ của đội ngũ CBCC theo đúng lộ trình đã đề ra. Xây dựng và thực hiện việc ĐTBD linh hoạt để CBCC có cơ hội được lựa chọn ĐTBD ngoại ngữ có chất lượng, đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả ĐTBD ngoại ngữ của các cơ sở ĐTBD ngoại ngữ ở Việt Nam. Chất lượng ĐTBD phải đi đôi với đáp ứng tiêu chuẩn, yêu cầu của đối tượng người học cũng như tạo điều kiện học tập tốt nhất cho người dạy và người học. Bên cạnh đó, xây dựng kế hoạch đưa CBCC trong diện quy hoạch nguồn đi ĐTBD ở nước ngoài cũng góp phần đào tạo kiến thức chuyên môn chuyên sâu, nâng cao NLNN, khả năng thích nghi và năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cho đội ngũ CBCC.

Thứ tư, tăng cường đầu tư các nguồn lực và xây dựng cơ chế quản lý các nguồn lực một cách hiệu quả phục vụ ĐTBD NLNN. Gắn với ĐTBD là gắn với các nguồn nhân lực trí thức, do đó, cần xây dựng kế hoạch ĐTBD đội ngũ giảng viên ngoại ngữ để làm tốt công tác ĐTBD và nâng cao NLNN cho CBCC, viên chức. Ngoài nguồn nhân lực, thì cơ sở vật chất cũng là những yếu tố không thể thiếu phục vụ quá trình ĐTBD. Khác với các môn học kiến thức chung khác có thể tổ chức tại các giảng đường lớn sức chứa hàng trăm học viên, việc học ngoại ngữ cần đầu tư những phòng học nhỏ (15- 25 học viên/ lớp) với các trang thiết bị, như: máy tính, máy chiếu, loa, đài, tăng âm… hoặc các phòng đa phương tiện chuyên dùng trong học tiếng.

Thứ năm, kiện toàn và ổn định tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác tổ chức bồi dưỡng, đánh giá NLNN cho đội ngũ CBCC từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp và hiệu quả. Thêm vào đó, tăng cường kiểm tra giám sát việc tổ chức ĐTBD, đánh giá và cấp chứng chỉ ngoại ngữ tại các đơn vị được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép tổ chức thi đánh giá NLNN theo Khung NLNN 6 bậc dùng cho Việt Nam. Bên cạnh đó, cần xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm để việc tổ chức thi đánh giá NLNN ngày càng minh bạch, hiệu quả và việc tổ chức ĐTBD thực sự có ý nghĩa trong việc nâng cao NLNN cho đội ngũ CBCC.

Kết luận

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, đòi hỏi đội ngũ CBCC phải không ngừng trau dồi năng lực chuyên môn và các kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế. Ngoại ngữ chính là chìa khóa giúp CBCC giao tiếp với quốc tế; việc ĐTBD nâng cao NLNN cho CBCC là phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, quy định pháp luật của Nhà nước và nhu cầu thực tế góp phần xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng dồi dào, cơ cấu hợp lý và có khả năng sử dụng ngoại ngữ thành thạo trong công việc và làm việc trong môi trường hội nhập. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cũng như sự đồng lòng, chung sức của toàn hệ thống chính trị theo một lộ trình phù hợp sẽ từng bước đem lại những kết quả ngày càng cao trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cũng như công tác ĐTBD CBCC trên mọi mặt.

Chú thích:
1. Dấu ấn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2022. https://www.xaydungdang.org.vn/. Ngày 23/01/2023.
2. Việt Nam tăng 6 bậc trong bảng xếp hạng chỉ số thông thạo Anh ngữ. https://giaoducthudo.giaoducthoidai.vn/. Ngày 15/11/2022.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
2. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
3. Quyết định số 1400/QĐ-TTg ngày 30/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020”.
4. Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019-2030”.
5. Thông tư số 23/2017/TT-BGDĐT 2017 ngày 29/9/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế thi đánh giá đào tạo theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
6. Thông tư số 18/2021/TT-BGDĐT ngày 28/6/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sỹ.
ThS. Lâm Thị Thuân
Học viện Hành chính Quốc gia