(Quanlynhanuoc.vn) – Các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là đơn vị cung cấp dịch vụ công thiết yếu cho xã hội. Tuy nhiên, trong xu thế kinh tế thị trường hiện nay, việc tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn những hạn chế nhất định, như: mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập còn cồng kềnh, phân tán, chồng chéo; phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước; đặc biệt là vấn đề quản trị của những đơn vị này. Vì vậy, việc hệ thống lại và đổi mới phương thức quản trị các đơn vị sự nghiệp công lập đang là vấn đề đặt ra. Do đó, nghiên cứu này tập trung đánh giá thực trạng, từ đó gợi mở những giải pháp nâng cao năng lực quản trị các đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam hiện nay.
Về đơn vị sự nghiệp công lập
Quan niệm về đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta trước khi có Luật Viên chức năm 2010, thường gắn với Nhà nước, tức là tổ chức do Nhà nước lập ra để cung ứng các dịch vụ sự nghiệp cho xã hội, ví dụ: “đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động cơ bản của nó là cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội trong các lĩnh vực: kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao,…”1; “đơn vị sự nghiệp công lập là những đơn vị do Nhà nước thành lập hoạt động công lập thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Các đơn vị này hoạt động trong các lĩnh vực: y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, môi trường, văn học, nghệ thuật, thể dục, thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ việc làm…”2.
Xét dưới góc độ pháp lý, khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập phản ánh khía cạnh sau đây:
(1) Được thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định;
(2) Là bộ phận cấu thành trong tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;
(3) Có tư cách pháp nhân;
(4) Cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước (tuy nhiên các đơn vị này không thực hiện chức năng quản lý nhà nước);
(5) Viên chức là lực lượng lao động chủ yếu, bảo đảm cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: đơn vị sự nghiệp công lập là những đơn vị do Nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập, hoạt động trong lĩnh vực cung ứng các dịch vụ công phục vụ các nhu cầu và lợi ích chung của xã hội, nhằm bảo đảm sự phát triển của con người và các điều kiện vất chất cơ bản cho sự tồn tại của các tổ chức và công dân.
Về quản trị đơn vị sự nghiệp công lập
Quản trị đơn vị sự nghiệp công lập có thể hiểu, là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản trị đến các hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, bằng chủ trương, định hướng, kiểm tra kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật) của đơn vị sự nghiệp công lập nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội cơ bản, thiết yếu của người dân một cách có hiệu quả.
Chủ thể quản trị đơn vị sự nghiệp công lập là đại diện chủ sở hữu nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập, được gọi là hội đồng quản trị (theo quy định của pháp luật hiện hành đang được gọi một cách chưa chính xác là hội đồng quản lý). Nếu như Hội đồng quản trị của doanh nghiệp tư và đơn vị sự nghiệp tư chỉ là đại diện của chủ sở hữu do các cổ đông bẩu ra, thì Hội đồng quản trị đơn vị sự nghiệp công lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập với các thành viên gồm: (1) Đại diện của cơ quan chủ quản (bộ, Ủy ban nhân dân); (2) Đại diện của bộ máy quản lý đơn vị sự nghiệp công lập (giám đốc hoặc người đại diện theo pháp luật); (3) Đại diện tập thể viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập .
Nhằm phân biệt Hội đồng quản trị đơn vị sự nghiệp công lập với bộ máy quản lý đơn vị sự nghiệp công lập ; theo đó, bộ máy quản lý đơn vị sự nghiệp công lập đứng đầu là giám đốc (hoặc hiệu trưởng) và bộ máy của giám đốc, thực hiện chức năng quản lý, điều hành các hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập theo chủ trương, định hướng, quyết sách của Hội đồng quản trị đơn vị sự nghiệp công lập . Như vậy về chức năng, thẩm quyền, Hội đồng quản trị quyết định chủ trương, phương hướng và các quyết sách phát triển đơn vị sự nghiệp công lập còn bộ máy quản lý (giám đốc) đơn vị sự nghiệp công lập quyết định các biện pháp tổ chức thực hiện các quyết sách của Hội đồng quản trị bằng các hoạt động quản lý, điều hành các hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập . Như vậy, cũng có thể hiểu, bộ máy quản lý là công cụ của bộ máy quản trị đơn vị sự nghiệp công lập để hiện thực hóa các quyết sách của Hội đồng quản trị đơn vị sự nghiệp công lập .
Về năng lực quản trị đơn vị sự nghiệp công lập
Năng lực quản trị đơn vị sự nghiệp công lập được tiếp cận theo hai góc độ, một là từ các yếu tố tiềm năng, hai là từ kết quả đầu ra của quản trị đơn vị sự nghiệp công lập. Nếu tiếp cận từ yếu tố tiềm năng, năng lực quản trị đơn vị sự nghiệp công lập là tổng hợp các kiến thức, kỹ năng quản trị của chủ thể quản trị trong việc quyết định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và các quyết sách khác trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực của của đơn vị sự nghiệp công lập nhằm thực hiện một cách có hiệu quả sứ mệnh, mục tiêu hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập . Nếu tiếp cận từ góc độ kết quả đầu ra, năng lực quản trị đơn vị sự nghiệp công lập là hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập , được thể hiện ở mức độ đáp ứng nhu cầu, lợi ích cơ bản, thiết yếu của người dân (người hưởng thụ dịch vụ sự nghiệp) về số lượng, chất lượng, thời gian và phí giá dịch vụ, được cung ứng bởi đơn vị sự nghiệp công lập .
Như vậy, năng lực quản trị đơn vị sự nghiệp công lập có thể đo bằng các tiêu chí sau:
(1) Trình độ kiến thức tổng hợp và chuyên môn cần thiết về lĩnh vực hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, có tầm nhìn xa và khả năng tư duy chiến lược của chủ thể quản trị, đáp ứng yêu cầu của quản trị đơn vị sự nghiệp công lập;
(2) Kỹ năng, kinh nghiệm của chủ thể quản trị trọng việc quyết định các chủ trương, định hướng, các quyết sách lớn nhằm bảo đảm cho các hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đã định;
(3) Hiệu quả cung ứng dịch vụ của đơn vị sự nghiệp công lập về số lượng, chất lượng, thời gian và phí, giá dịch vụ, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của người hưởng thu dịch vụ.
Năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập trước hết phụ thuộc vào năng lực của chủ thể quản trị là Hội đồng quản trị, đồng thời còn phụ thuộc vào năng lực của bộ máy quản lý, điều hành đơn vị sự nghiệp công lập (giám đốc và bộ máy của giám đốc), với vai trò là người tổ chức thực hiện các quyết sách của Hội đồng quản trị đơn vị sự nghiệp công lập.
Thực trạng hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam
Đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam đảm trách nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu như: y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể thao… Thông qua hoạt động của mình, các đơn vị sự nghiệp công lập đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế khu vực ngoài nhà nước tham gia ngày càng mạnh mẽ vào lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp, nhất là cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa XII) về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã khẳng định, các đơn vị sự nghiệp công lập với đội ngũ nhân lực chất lượng cao đã có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu giảm nghèo bền vững, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới, nâng cao sức khỏe Nhân dân, góp phần bảo đảm bền vững môi trường, công bằng xã hội và hoàn thành cơ bản các mục tiêu thiên niên kỷ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập còn nhiều hạn chế cần được khắc phục để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn khách quan. Trước hết, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi phương thức, quy trình cung ứng dịch vụ cũng như số lượng, chất lượng dịch vụ sự nghiệp. Trong bối cảnh đó, các đơn vị sự nghiệp công lập không thể tách khỏi xu thế phát triển chung, mà cần chú trọng cải tiến quy trình quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, có chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao nhằm tạo ra sản phẩm dịch vụ đa dạng, chất lượng với chi phí hợp lý, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Mặt khác, sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần chia sẻ gánh nặng với các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Các đơn vị sự nghiệp do tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân thành lập cho phép người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn nhà cung cấp và loại dịch vụ phù hợp. Tuy nhiên, điều này đã tạo áp lực lớn đối với các đơn vị sự nghiệp công lập , bởi vì muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận đổi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Hiện nay, số lượng đơn vị sự nghiệp công lập và biên chế sự nghiệp ở Việt Nam rất lớn. Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến ngày 30/9/2016, cả nước có 56.839 đơn vị sự nghiệp công lập (1.109 đơn vị của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; 55.730 đơn vị của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), tổng số người làm việc (biên chế sự nghiệp) là 2.097.020 người. Sau quá trình thực hiện tinh giản biên chế và đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, biên chế sự nghiệp năm 2021 giảm còn 1.783.174 người. Tuy nhiên, so với biên chế công chức từ cấp huyện trở lên năm 2021 là 247.344 người thì biên chế sự nghiệp hiện đang gấp hơn 7 lần3. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp và phải cân đối cho nhiều mục tiêu quan trọng của quốc gia, việc tinh gọn tổ chức, tinh giản biên chế, tăng cường tự chủ, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước đang là yêu cầu cấp thiết.
Mặc dù quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã được triển khai trong nhiều năm, với nhiều giải pháp về quản lý, tổ chức bộ máy, biên chế và cơ chế tài chính nhưng kết quả đạt được còn khiêm tốn. Nghị quyết số 19-NQ/TW đã nêu rõ các hạn chế, yếu kém nổi lên là: đổi mới hệ thống tổ chức còn chậm; quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng, miền và nhu cầu thực tế; hệ thống tổ chức còn cồng kềnh, manh mún, phân tán, chồng chéo; quản trị nội bộ yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp; chi tiêu ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn quá lớn, một số đơn vị thua lỗ, tiêu cực, lãng phí; cơ cấu đội ngũ viên chức chưa hợp lý, chất lượng chưa cao, năng suất lao động thấp; thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn hình thức, có phần thiếu minh bạch; việc thực hiện xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công còn chậm.
Một số khó khăn, hạn chế trong quản trị các đơn vị sự nghiệp công lập
Thứ nhất, về phương thức quản lý, nâng cao năng lực quản trị đơn vị: hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn cồng kềnh, manh mún, phân tán, chồng chéo; quản trị nội bộ yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp. Chi tiêu ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn quá lớn, một số đơn vị thua lỗ, tiêu cực, lãng phí do trình độ quản lý tài chính yếu kém và thiếu hiệu quả.
Thứ hai, về hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy: công tác đổi mới hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm. Quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng, miền và nhu cầu thực tế. Chất lượng đội ngũ lãnh đạo, quản lý và viên chức chưa cao, năng suất lao động thấp. Cơ cấu đội ngũ viên chức chưa hợp lý, đội ngũ viên chức làm công tác phục vụ chiếm tỷ lệ cao. Việc thu hút nhân tài vào làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập còn hạn chế…
Thứ ba, về áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp như mô hình quản trị DN: ngày 22/6/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Tài chính, đến nay, nếu so với Danh mục chuyển đổi thành công ty cổ phần giai đoạn 2017 – 2020, số lượng đơn vị đã chuyển đổi thành công ty cổ phần chỉ đạt 14,5%4. Quá trình chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần còn nhiều lúng túng; công tác giám sát tình hình hoạt động và cung cấp dịch vụ sự nghiệp công chưa chặt chẽ. Sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần, có hiện tượng giảm chất lượng dịch vụ sự nghiệp công hoặc ngừng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở một số ít đơn vị… Trong khi đó, hiện nay, chính sách ưu đãi về tài chính và đầu tư chưa đủ hấp dẫn để thúc đẩy và tạo động lực cho các đơn vị sự nghiệp công lập cổ phần hóa; chưa có hướng dẫn về cơ chế tài chính, quản lý, sử dụng các tài sản cơ sở hạ tầng giao cho doanh nghiệp chuyển đổi từ đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, khai thác…
Thứ tư, về quản trị tài chính, tài sản công: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập , khai thác nguồn lực, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, đặc biệt là cách phân loại đơn vị sự nghiệp công lập , xác định giá trị tài sản để giao tài sản cho đơn vị quản lý. Phương thức trang bị tài sản cho các đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu bằng hiện vật, việc sử dụng công cụ thị trường còn ít, nguồn hình thành tài sản chủ yếu từ ngân sách nhà nước, đầu tư theo hình thức đối tác công – tư chưa được áp dụng nhiều. Quỹ nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước do các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, sử dụng có số lượng và giá trị rất lớn nhưng hiệu suất sử dụng, khai thác chưa tương xứng…
Một số giải pháp nâng cao năng lực quản trị các đơn vị sự nghiệp công lập
Một là, đổi mới tư duy quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Sự khác biệt lớn nhất giữa quản trị doanh nghiệp và quản lý nhà nước là việc lấy khách hàng làm trung tâm. Nếu trước đây, các đơn vị sự nghiệp công lập đứng ở một tư thế “cửa trên” so với khách hàng, và có thể từ chối phục vụ, hay phục vụ không tốt mà vẫn không phải lo sợ về hậu quả. Ngày nay, khi “chiếc áo” quản lý nhà nước đã được cởi bỏ khỏi các đơn vị sự nghiệp công lập, điều tiếp theo quyết định hiệu quả hoạt động của các đơn vị này là họ có phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng hay không. Tư duy phục vụ, tư duy coi khách hàng là ưu tiên số một là một sự biến chuyển có tính cách mạng trong những con người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Để phục vụ được khách hàng này, các đơn vị sự nghiệp công lập cần xuất phát từ tìm hiểu nhu cầu của người dân, các loại dịch vụ người dân cần, mức chất lượng yêu cầu, cách thức tiếp nhận dịch vụ, mức giá dịch vụ…, chứ không đơn thuần chỉ bán những gì họ có sẵn.
Nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay đổi theo hướng trở nên khó tính hơn, do đó các nhà cung cấp dịch vụ công, bao gồm các đơn vị sự nghiệp công lập cần phải thường xuyên theo dõi sự thay đổi đó và đáp ứng cho kịp thời. Điều đó có nghĩa các đơn vị sự nghiệp công lập cũng cần đặt mình vào tâm thế cải tiến liên tục, thay đổi liên tục để phục vụ người dân – khách hàng tốt nhất. Đó là sự thay đổi về chủng loại dịch vụ, công nghệ hỗ trợ việc tạo ra và chuyển giao dịch vụ, kỹ năng và năng lực của nhân viên cung cấp dịch vụ.
Bên cạnh việc đáp ứng tốt khách hàng, tư duy doanh nghiệp cũng đòi hỏi đơn vị sự nghiệp công lập phải tính toán cặn kẽ tính hiệu quả – là mối quan hệ giữa chi phí cung cấp dịch vụ và doanh thu, và kết quả cuối cùng là chênh lệch thu – chi. Để hiệu quả, các đơn vị sự nghiệp công lập cần quản trị toàn bộ tổ chức của mình mang tính hệ thống, nhìn tổ chức như một tổng thể với các quy trình như về tác nghiệp cung cấp dịch vụ, quản trị nhân sự, quản trị tài chính, quản trị tài sản – cơ sở vật chất, thiết kế dịch vụ. Các quy trình cần được thiết kế và tinh chỉnh tối ưu để cung cấp đúng dịch vụ, với thời gian nhanh nhất, và chi phí thấp nhất.
Hai là, đổi mới phương thức quản trị, điều hành đơn vị sự nghiệp công lập.
Trên cơ sở rà soát, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, giảm mạnh các đầu mối, các đơn vị sự nghiệp công lập tập trung nguồn lực đầu tư của Nhà nước và thu hút các nguồn lực xã hội để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đơn vị, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Cùng với đó, các đơn vị sự nghiệp công lập đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành; chủ động xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế trong việc quản lý, điều hành đơn vị, áp dụng các mô hình quản trị hiện đại.
Để quản trị tài chính hiệu quả, các đơn vị sự nghiệp công lập cần xây dựng quy chế tài chính nội bộ để tăng cường công tác quản lý trong nội bộ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy phát triển sự nghiệp, khai thác nguồn thu, tăng nguồn thu, tiết kiệm chi, do vậy nhiều đơn vị đã tiết kiệm chi thường xuyên góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Quản trị hiện đại là phải giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị bộ phận. Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động trong việc rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị. Việc tự chủ tạo về tổ chức bộ máy đã giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thông thoáng cho các đơn vị, bộ phận trong quá trình triển khai nhiệm vụ. Được tự chủ sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động nguồn kinh phí tập trung cho đào tạo bồi dưỡng đội ngũ, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ba là, áp dụng một số yếu tố của mô hình quản trị doanh nghiệp vào phương thức hoạt động củađơn vị sự nghiệp công lập, nhất là đối với những đơn vị có mức độ tự chủ cao.
Cần nhận thức rõ, việc vận dụng mô hình quản trị doanh nghiệp vào quản trị đơn vị sự nghiệp công lập không phải là làm thay đổi mục tiêu, tính chất hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, “không thương mại hóa” dịch vụ sự nghiệp công lập, mà là vận dụng một số yếu tố nhất định của mô hình quản trị doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động những không mất đi bản chất phục vụ, không vì mục tiêu lợi nhuận của hoạt động dịch vụ sự nghiệp công. Các đơn vị sự nghiệp công lập trước đây chưa coi trọng tính phục vụ nên cơ cấu tổ chức hoàn toàn chưa thể hiện mối quan tâm đối với khác hàng, thường bao gồm những bộ phận như: phòng tổ chức, phòng kế toán – tài chính, phòng kế hoạch, các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ. Vì vậy, các đơn vị sự nghiệp công lập cần được tái cấu trúc theo mô hình doanh nghiệphóa, theo đó phải được định hướng theo nhu cầu của khách hàng mục tiêu để xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy, mô hình quản trị, cơ chế điều hành rõ ràng.
Về mặt chiến lược, cấu trúc quản trị cần hình thành những bộ phận mới như đại diện cho chủ sở hữu nhà nước, ban điều hành và ban kiểm soát. Về mặc tác nghiệp, cần hình thành những phòng, ban chuyên môn mới để hướng tới khác hàng như bộ phận marketing, bộ phận chăm sóc khác hàng, bộ phận bảo đảm chất lượng. Chính những bộ phận này sẽ chịu trách nhiệm tìm hiểu nhu cầu và thiết kế dịch vụ và bảo đảm cung cấp dịch vụ tối ưu nhất.
Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận hiện cũng cũng cần được định hình lại. Phòng kế hoạch cần được chuyển đổi theo hướng một bộ phận tư vấn chiến lược cho các nhà quản trị cấp cao. Phòng tổ chức nhân sự, cần thực hiện những chức năng rộng lớn hơn ngoài việc quản lý hồ sơ, thăng cấp thăng chức. Họ cần thiết kế văn hóa tổ chức mang tính phục vụ, hệ thống đánh giá thành tích, hệ thống đào tạo nhân viên liên tục để nhân viên có thái độ tốt của những người làm việc vụ, có kỹ năng chuyên môn để cung cấp dịch hài lòng nhất và hiệu quả nhất. Phòng kế toán – tài chính cũng cần chuyển đổi từ trạng thái giữ tiền sang trạng thái của những người là một phần trong cung cấp dịch vụ – khâu thanh toán của khách hàng. Chỉ khi tất cả các bộ phận trong đơn vị sự nghiệp công lập nhìn cùng về một hướng về khách hàng và hành động chung trên tinh thần phục vụ, thì khi đó, sự doanh nghiệp hóa đơn vị sự nghiệp công lập mới thành công.
Bốn là, xây dựng và áp dụng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Kiểm soát nội bộ là hoạt động không đo đếm kết quả dựa trên các con số tăng trưởng mà chỉ giám sát nhân viên, chính sách, hệ thống, phòng, ban của đơn vị đang vận hành ra sao và có khả năng hoàn thành kế hoạch hay không. Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu nhằm: vận hành có trật tự, đúng đắn, tính kinh tế, các hoạt động có hiệu lực và hiệu quả; thực hiện tốt trách nhiệm giải trình; tuân theo luật pháp và các quy tắc; bảo đảm an toàn nguồn lực chống lại mất mát, lãng phí và thiệt hại.
Theo Luật Kế toán năm 2015, kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ được quy định tại Điều 39, trong đó nêu rõ kiểm soát nội bộ là việc thiết lập và tổ chức thực hiện trong nội bộ đơn vị kế toán các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt yêu cầu đề ra. Trong đó, yêu cầu đơn vị kế toán phải thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị để bảo đảm các yêu cầu: tài sản của đơn vị được đảm bảo an toàn, tránh sử dụng sai mục đích, không hiệu quả; các nghiệp vụ được phê duyệt đúng thẩm quyền và được ghi chép đầy đủ làm cơ sở cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính trung thực, hợp lý.
Năm là, thực hiện chuyển đổi số trong quản trị đơn vị sự nghiệp công lập.
Chuyển đổi số trong quản lý đơn vị sự nghiệp công lập là yêu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện nay khi quá trình chuyển đổi số quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ. Việc chuyển đổi số trong quản trị đơn vị sự nghiệp công lập cần phải tương ứng với quá trình chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, sự phát triển của kinh tế số, xã hội số. Việc chuyển đổi số trong quản trị đơn vị sự nghiệp công lập cần tập trung vào các nội dung: tăng cường hiệu quả quản lý, điều hành; quản trị có hiệu quả thông tin đầu vào, đầu ra, thông tin liên quan đến quá trình cung ứng dịch vụ công, thông tin nhu cầu về số lượng, chất lượng dịch vụ công, xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện liên quan đến hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập; bảo đảm bảo sự thông suốt, chia sẻ thông tin. Các quyết định quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập được dựa trên nền tảng thông tin đủ độ tin cậy, xác thực. Các đơn vị sự nghiệp công lập cần rà soát xuất phát điểm về chuyển đổi số để có lộ trình thích hợp. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập cần phải thực sự tiên phong, quyết tâm trong nhận thức và hành động về chuyển đổi số, đồng thời cần dẫn dắt, tạo sự đồng thuận trong quá trình chuyển đổi số trong quản trị đơn vị sự nghiệp công lập.
Sáu là, nâng cao năng lực đội ngũ lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong điều kiện chuyển dần sang cơ chế tự chủ, các đơn vị sự nghiệp công lập được chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ, tự chủ về tổ chức và nhân sự, tự chủ tài chính. Vì vậy, để đáp ứng được mô hình quản lý mới này, người lãnh đạo, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập phải có tinh thần đổi mới, sáng tạo, có tư duy chiến lược, tầm nhìn tốt, quản trị hiện đại, được đào tạo, bồi dưỡng về các kỹ năng lãnh đạo, quản lý. Người lãnh đạo đơn vị sự nghiệp công lập cần làm sao để mọi viên chức, người lao động cuả đơn vị đều sẳn sàng hành động trên tinh thần phục vụ khách hàng, có một tâm thế cạnh tranh và luôn thay đổi. Mục tiêu đó chỉ đạt được nếu tổ chức tuyển chọn được người đứng đầu đủ bản lĩnh, năng lực, hiện thân cho tinh thần phục vụ.