Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

(Quanlynhanuoc.vn) Tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân là tư tưởng lớn, nhất quán, xuyên suốt cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Tư tưởng của Người đã được Đảng và Nhà nước vận dụng sáng tạo, phù hợp vào điều kiện, hoàn cảnh nước ta, ngày một hoàn thiện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ. 
Ảnh minh họa (internet).
Những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền

Một là, chủ quyền Nhân dân (Nhân dân là nguồn gốc và cũng là chủ thể của quyền lực nhà nước).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền (NNPQ) trước hết thể hiện ở tư tưởng “lấy dân làm gốc, Nhân dân là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước1. Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là Nhân dân làm chủ”2, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân3. Nói tóm lại, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân4. Nhà nước do Nhân dân làm chủ phải là một nhà nước do chính Nhân dân lập nên thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, tổ chức bầu cử là một trong những nhiệm vụ cấp bách, Người nói: “Tôi đề nghị Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”5. Theo Người, một nhà nước thực sự của dân, không chỉ do dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ mà còn là Nhà nước chịu sự kiểm tra, giám sát, định đoạt của Nhân dân. Người nhấn mạnh: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”6; “Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”7. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”8.

Để tiến tới một nhà nước hiệu lực, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh, tất cả vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ và nhất là phải có đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục vụ Nhân dân, luôn chủ động, tích cực chống tham ô, lãng phí và quan liêu, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Theo Người: “Việc đấu tranh với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc đấu tranh với kẻ địch ở trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót…”9. Đây là cuộc đấu tranh rất gay go, phức tạp, đòi hỏi phải có quyết tâm cao.

Hai là, Nhà nước vì con người, hướng tới con người, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền dân tộc.

Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, Người đã mở đầu bằng các đoạn trích dẫn trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân của nước Pháp năm 1789. Từ chỗ các quyền con người là những quyền tự nhiên mà tạo hóa ban tặng cho con người không thể xâm phạm, gắn liền với mỗi cá nhân, Người nhấn mạnh và mở rộng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”10, “… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”11. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là văn kiện lịch sử có giá trị thời đại và ý nghĩa to lớn, thể hiện sự kế thừa, phát triển những quyền cơ bản nhất của con người, của dân tộc, là sản phẩm của sự kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống lịch sử kiên cường, anh hùng, bất khuất của dân tộc ta; đồng thời, là nơi thể hiện những nguyện vọng chính đáng của người dân Việt Nam, của người dân ở các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn suy nghĩ, trăn trở: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”12. Người khẳng định, xét về bản chất và mục tiêu, “không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”13. Theo Người, bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là “các ông quan cách mạng” mà là “công bộc của nhân dân”, “pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ để bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”. Nghĩa vụ và quyền lợi công dân Việt Nam được thể hiện rất rõ trong Chương 2 Hiến pháp năm 1946. Bản Hiến pháp thể hiện sự tiến bộ, tầm nhìn vượt thời gian và cho đến nay vẫn vẹn nguyên những giá trị sâu sắc.

Ba là, Nhà nước được xây dựng hợp hiến, hợp pháp và quản lý xã hội dựa trên pháp luật dân chủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi Hiến pháp là linh hồn của pháp quyền, là công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Năm 1919, trong “Bản yêu sách” gửi tới Hội nghị Versailles, Người đã thay mặt nhân dân An Nam đòi các quyền tự do, dân chủ. Sau đó, Người chuyển nội dung này sang thể văn vần, lấy đầu đề “Việt Nam yêu cầu ca” để người dân dễ hiểu và dễ nhớ. Người viết: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”14. Ngày 03/9/1945, tại phiên họp của Chính phủ việc xây dựng và ban hành Hiến pháp được xác định là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đầu tiên. Người nói: “Trước chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ, chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ”15. Từ nhiệm vụ được xác định, Hiến pháp năm 1946 đã ra đời. Hiến pháp mang trong mình sứ mệnh lịch sử, chính trị quan trọng là tuyên bố và khẳng định với thế giới rằng về mặt pháp lý Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nhà nước hợp hiến, là quốc gia độc lập, có chủ quyền.

Sau năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh đó, Hiến pháp năm 1959 ra đời. Ngoài hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959, từ năm 1945 – 1969, Người còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật, trong đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến các quyền con người, quyền công dân. Người nhấn mạnh vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và hoạt động của Nhà nước, nhất là trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của Nhân dân. Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”16.

Bốn là, Nhà nước có Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, lãnh đạo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, mục đích hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo Nhân dân giành lấy chính quyền, mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho Nhân dân, trung thành và phụng sự lợi ích của Nhân dân, của dân tộc. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Người chỉ rõ: “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Sau này, trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn và nhắc nhở toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”, “là người lãnh đạo”, “Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”16. Liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”16, “phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”17.

Năm là, độc lập của quyền tư pháp.

Tư tưởng về sự độc lập của quyền tư pháp đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và vận dụng những yếu tố hợp lý, phù hợp vào thực tiễn tổ chức tòa án của nước ta. Ngày 24/01/1946, Người đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán. Theo đó, nền tư pháp mới của nước ta được tổ chức trên hai nguyên tắc: (1) Tư pháp độc lập với hành chính; (2) Nhân dân tham gia việc xét xử. Tại Điều 47 Sắc lệnh số 13/SL quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào công việc tư pháp”.

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm, học tập, áp dụng hợp lý những nguyên lý cơ bản của thuyết phân quyền ở khía cạnh kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, với nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau đã được thiết kế, bảo đảm Nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Điều này được thể hiện rất rõ trong Hiến pháp năm 1946 (tại Điều 22, 31, 43, 50, 51, 52, 54, 63).

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

Ngày nay, với tính chất là những giá trị phổ quát, cao quý được thừa nhận chung bởi nền văn minh nhân loại, NNPQ là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, tiến bộ, văn minh, việc xây dựng NNPQ trở thành một xu thế tất yếu khách quan đối với các quốc gia dân chủ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển các giá trị về NNPQ theo tư tưởng của Người và tinh hoa của nhân loại, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), năm 1994, lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” trong Văn kiện của Đảng và nêu khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. Từ đó đến nay, việc xây dựng NNPQ XHCN đã tiếp tục trở thành chủ trương nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta, được khẳng định qua các kỳ Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI, XII.

Những quan điểm, đường lối đó được cụ thể hóa trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, năm 2021 Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”18, đồng thời, “xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp…”19. Tiếp đó, ngày 09/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW). Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã khái quát 8 đặc trưng cơ bản của NNPQ XHCN Việt Nam, làm rõ quan điểm, các mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể đến năm 2030, đồng thời xác định 10 nhiệm vụ và giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập đang tồn tại.

Xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam là vấn đề lớn, khó khăn, phức tạp, lâu dài, do đó, việc tiếp tục nghiên cứu vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN ở nước ta trong giai đoạn mới là rất cần thiết. Để góp phần xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam theo tư tưởng của Người, trong thời gian tới xin được đề xuất một số giải pháp sau:

Một là, chú trọng và đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, người dân về NNPQ, NNPQ XHCN Việt Nam.

Trong đó, về nội dung, cần tập trung tuyên truyền về NNPQ, NNPQ XHCN Việt Nam, mục tiêu phấn đấu thời gian tới và ý thức tuân thủ pháp luật, trách nhiệm của công dân đối với việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ. Nghiên cứu bảo đảm nội dung tuyên truyền súc tích, dễ hiểu, hấp dẫn, phù hợp với từng diện đối tượng, bảo đảm ý nghĩa, thiết thực, tránh lãng phí, dàn trải. Về hình thức, nên đổi mới hơn nữa hình thức tuyên truyền theo hướng đa dạng, sáng tạo, phong phú. Có thể lựa chọn thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, sân khấu hóa qua các tiểu phẩm hoặc tổ chức lồng ghép với các chương trình văn hóa, văn nghệ nhằm thu hút đông đảo Nhân dân tham gia

Hai là, tiếp tục nỗ lực rà soát các quy định của pháp luật, kịp thời sửa đổi, bổ sung, xây dựng và ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật.

Trong quá trình rà soát, xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật cần chú ý một số vấn đề sau: (1) Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cần chú trọng chất lượng, bảo đảm có hiệu lực trực tiếp, không chạy theo số lượng, tránh tình trạng “luật khung, luật ống”; (2) Tập trung giải quyết các vấn đề đangvướng mắc, bất cập, đặc biệt là những vấn đề mới phát sinh, phức tạp, những vấn đề chưa có quy định hoặc đã có quy định nhưng đã lạc hậu, không còn phù hợp; (3) Bao quát được các đối tượng điều chỉnh, tránh tình trạng bỏ trống, sót lọt hoặc quy định thiếu chặt chẽ để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm mục đích chống phá Đảng và Nhà nước; (4) Công khai, minh bạch, lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm, kiên quyết không để xảy ra tình trạng “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật; (5) Ưu tiên xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực, bảo đảm phù hợp, khả thi, bám sát thực tiễn của đất nước và tương thích với pháp luật quốc tế; (6) Quan tâm, ưu tiên đặc biệt đến các nhóm dễ bị tổn thương; (7) Trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm lấy ý kiến rộng rãi, đông đảo các tầng lớp Nhân dân, đồng thời tiếp thu các ý kiến tham góp, chất lượng, phù hợp.

Ba là, tiếp tục tập trung nghiên cứu, có lộ trình phù hợp để xây dựng cơ chế bảo hiến ở Việt Nam.

Trong NNPQ, Hiến pháp có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc tạo dựng và phát triển nền dân chủ chân chính, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trên thế giới, các NNPQ đích thực đều xây dựng thiết chế bảo vệ Hiến pháp mạnh mẽ. Quá trình xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam đòi hỏi cần có cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiệu quả hơn nữa. Về vấn đề này, Việt Nam có thể nghiên cứu theo hướng giao cho một cơ quan chuyên trách thuộc Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện việc giám sát đối với các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền ban hành. Nên tham khảo, học hỏi kinh nghiệm, sáng kiến của một số quốc gia khác trên thế giới để vận dụng phù hợp vào điều kiện của đất nước ta.

Bốn là, tiếp tục điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước phù hợp với quy định của Hiến pháp và Nghị quyết số 27- NQ/TW.

Đẩy mạnh đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát, chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đồng thời, chú ý tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam. Tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước, tăng cường số lượng và chất lượng của đội ngũ luật sư, trợ giúp viên pháp lý bảo đảm đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý cho người dân. Nghiên cứu thành lập các thiết chế mới về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phát huy dân chủ XHCN. Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp, hệ trọng, cần nghiên cứu kỹ càng, có lộ trình phù hợp, không nên nóng vội.

Năm là, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu có đức, có tài, có uy tín, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Việc tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm là cần thiết, do đó cần tiếp tục thực hiện quyết liệt hơn trong thời gian tới. Ngoài ra, cần bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, công chức, viên chức, quan tâm, có chế độ, chính sách hợp lý nhằm thu hút và trọng dụng nhân tài theo lời căn dặn của Người. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để có chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp hơn với cán bộ các cấp hiện nay là rất cần thiết.

Chú thích:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. https://nhandan.vn, ngày 11/7/2022.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 2. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 83.
3, 4, 16. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13.  H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 232, 232, 127.
5, 12. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. H. NXB. Chính trị quốc gia, 2011,  tr. 7, 64.
6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 8. H. NXB. Chính trị quốc gia, 1996, tr. 279.
7. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 9. H. NXB. Chính trị quốc gia, 2012, tr. 263.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB. Chính trị quốc gia, 2000, tr. 60, tr. 277 – 279.
9. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB. Chính trị quốc gia, 2002, tr. 36.
10, 11. Hồ Chí Minh. Tuyên Ngôn độc lập (bản sao). Trung tâm lưu trữ quốc gia III, tr. 1.
13. Hồ Chí Minh. Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. H. NXB Sự thật, 1976, tr. 38 – 39.
14. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 1. H. NXB. Chính trị quốc gia, 1995, tr. 436 – 437.
15. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB. Chính trị quốc gia, 2011, tr. 301.
16, 17. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 15. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 622, 617.
18, 19. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 174, 175.
TS. Nguyễn Thị Thanh Nga
Học viện Chính trị Công an nhân dân