(Quanlynhanuoc.vn) – Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó xác định giáo dục là một trong 8 lĩnh vực cần được ưu tiên thực hiện chuyển đổi số. Chuyển đổi số là yêu cầu bắt buộc để các cơ sở giáo dục phải thực hiện nhằm bảo đảm tiến độ kế hoạch, bảo đảm chất lượng mọi hoạt động trong tổ chức đào tạo và quản lý, cũng như mang lại kết quả thực chất, bền vững. Nhằm làm rõ nội dung này, phóng viên Tạp chí Quản lý nhà nước đã phỏng vấn PGS.TS Nguyễn Tiến Đông – chuyên gia về quản trị và là nhà quản lý giáo dục. Ông tiếp cận rất sớm với chuyển đổi số, ý kiến của ông sẽ đóng góp thêm góc nhìn về chuyển đổi số giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
PV: Để hiểu rõ về chuyển đổi số, xin Phó giáo sư khái lược về chuyển đổi số? Chuyển đổi số tại Việt Nam?
PGS.TS Nguyễn Tiến Đông: Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015 và phổ biến từ năm 2017. Ở Việt Nam, khái niệm chuyển đổi số được đề cập nhiều bắt đầu từ năm 2018. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia.
Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, có được nhờ sự tiến bộ vượt bậc của những công nghệ mới mang tính đột phá, nhất là công nghệ số.
Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.
Chuyển đổi số không chỉ giúp tăng năng suất, giảm chi phí mà còn mở ra không gian phát triển mới, tạo ra các giá trị mới ngoài các giá trị truyền thống vốn có. Chuyển đổi số mở ra cơ hội chưa từng có cho Việt Nam. Trong đó, xây dựng và phát triển chính phủ số giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ, tăng cường minh bạch, giảm tham nhũng. Kinh tế số thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra giá trị mới, giúp tăng năng suất lao động, tạo động lực tăng trưởng mới, tạo đà thoát bẫy thu nhập trung bình. Xã hội số giúp người dân bình đẳng về cơ hội tiếp cận dịch vụ, đào tạo, tri thức, thu hẹp khoảng cách phát triển, giảm bất bình đẳng. Các ngành, lĩnh vực được tối ưu, “thông minh hóa”, hướng đến nâng cao trải nghiệm và chất lượng cuộc sống của người dân.
PV: Vậy thưa Phó giáo sư, chuyển đổi số trong giáo dục là gì? Các nội dung quan trọng của chuyển đổi số trong giáo dục?
PGS.TS Nguyễn Tiến Đông: Trong giáo dục, khái niệm chuyển đổi số thường liên quan đến việc sử dụng công nghệ số và các tài liệu số trong quá trình giảng dạy và học tập. Đây là một phần quan trọng của cuộc cách mạng số hóa giáo dục, có mục tiêu tối ưu hóa việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Hiểu một cách đơn giản thì chuyển đổi số trong giáo dục chính là việc ứng dụng những công nghệ tiên tiến giúp nâng cao trải nghiệm của người học; cải thiện những phương pháp giảng dạy cũng như tạo môi trường để học tập thuận tiện nhất.
Ứng dụng chuyển đổi số sẽ tạo ra mô hình giáo dục thông minh, từ đó giúp việc tiếp thu kiến thức của người học trở nên đơn giản và dễ dàng hơn. Sự bùng nổ của các nền tảng công nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi để truyền đạt kiến thức và phát triển được khả năng tự học của người học mà không bị giới hạn về thời gian cũng như không gian.
Một số khía cạnh quan trọng của chuyển đổi số trong giáo dục bao gồm: (1) Sử dụng thiết bị công nghệ; (2) Tạo và chia sẻ tài liệu số; học trực tuyến; (3) Phân phối nội dung giáo dục; (4) Kiểm tra và đánh giá trực tuyến; (4) Tương tác trực tuyến. Chuyển đổi số trong giáo dục có thể giúp tạo ra môi trường học tập hiện đại, linh hoạt hơn và cung cấp nhiều cơ hội học tập đa dạng hơn cho học sinh. Tuy nhiên, cũng có các thách thức và yêu cầu đối với giáo viên và học sinh để thích nghi và tận dụng được các cơ hội mà công nghệ số mang lại.
PV: Vì sao cần phải chuyển đổi số trong giáo dục ở Việt Nam, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Tiến Đông: Chuyển đổi số trong giáo dục là một quá trình cần thiết ở Việt Nam. Về cơ bản, có một số lý do quan trọng tại sao cần chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam, như sau:
Thứ nhất, cải thiện chất lượng giáo dục. Chuyển đổi số có thể cung cấp các công cụ và tài liệu học tập tương tác, hấp dẫn hơn, giúp học sinh hiểu bài học một cách sâu sắc hơn và thúc đẩy tư duy sáng tạo.
Thứ hai, sử dụng tài liệu giáo dục linh hoạt hơn. Giáo viên và học sinh có thể truy cập tài liệu giảng dạy và học tập từ xa thông qua các thiết bị kỹ thuật số. Điều này giúp giảng dạy và học tập không bị giới hạn bởi vị trí địa lý.
Thứ ba, nâng cao sự tiện lợi. Chuyển đổi số giúp giảng viên dễ dàng tạo và quản lý nội dung giảng dạy. Học sinh có thể truy cập tài liệu mọi lúc, mọi nơi, giúp họ tự quản lý thời gian học tập.
Thứ tư, tạo cơ hội học tập đa dạng. Công nghệ số cho phép trải nghiệm học tập đa dạng, bằng cách sử dụng video, phương tiện truyền thông, ứng dụng giáo dục và nền tảng học trực tuyến.
Thứ năm, phát triển kỹ năng số hóa. Chuyển đổi số trong giáo dục giúp học sinh phát triển kỹ năng số hóa quan trọng, cần thiết cho cuộc sống và công việc trong thế kỷ XXI.
Thứ sáu, tiết kiệm tài nguyên giáo dục. Sử dụng tài liệu số và giảng dạy trực tuyến có thể giảm bớt nột dung trên giấy và tài liệu in ấn, giúp tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Thứ bảy, bảo đảm tương tác và kết nối. Công nghệ số cung cấp cơ hội tương tác và kết nối giữa học sinh, giáo viên và cộng đồng giáo dục một cách dễ dàng. Điều này có thể thúc đẩy việc học hỏi xã hội và chia sẻ kiến thức.
Thứ tám, thích nghi với sự phát triển công nghệ. Thế giới đang trải qua sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ và kỹ thuật. Chuyển đổi số trong giáo dục giúp học sinh và giáo viên thích nghi với những thách thức và cơ hội mới mà sự phát triển này mang lại.
Tuy nhiên, chuyển đổi số cũng đòi hỏi đầu tư, đào tạo và quản lý cẩn thận để bảo đảm rằng các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả cũng như bảo đảm tính an toàn của thông tin cá nhân. Công tác chuẩn bị và hỗ trợ cần được cung cấp để mọi người có thể hưởng lợi từ chuyển đổi số trong giáo dục.
PV: Chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam cần thực hiện các nội dung nào?
PGS.TS Nguyễn Tiến Đông: Chuyển đổi số trong giáo dục ở Việt Nam bao gồm một loạt các nội dung và hoạt động để tận dụng công nghệ số và nền tảng trực tuyến nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Theo tôi, có 10 nội dung quan trọng của chuyển đổi số trong giáo dục ở Việt Nam:
(1) Phát triển hạ tầng công nghệ. Để chuyển đổi số thành công, hạ tầng công nghệ, bao gồm: mạng internet, máy tính, thiết bị kỹ thuật số và phần mềm phải được cập nhật và nâng cấp để bảo đảm tính ổn định và hiệu quả.
(2) Tạo tài liệu số và nội dung giảng dạy. Giáo viên cần được đào tạo để sáng tạo tài liệu số và nội dung giảng dạy sử dụng công nghệ, bao gồm: các nội dung trình chiếu (slide PowerPoint), video giảng dạy, đồ họa (infographic) và sử dụng các ứng dụng giáo dục.
(3) Phát triển nền tảng học trực tuyến. Xây dựng và sử dụng các nền tảng học trực tuyến để hỗ trợ việc giảng dạy và học tập từ xa. Nền tảng này cung cấp không chỉ tài liệu giảng dạy mà còn các công cụ đánh giá, tương tác học tập và quản lý học tập.
(4) Đào tạo giáo viên. Đào tạo giáo viên về cách sử dụng công nghệ và nền tảng trực tuyến để giảng dạy một cách hiệu quả. Giáo viên cần phải biết cách tạo, chia sẻ và quản lý tài liệu số và tương tác trực tuyến với học sinh.
(5) Bảo mật thông tin. Bảo đảm an toàn thông tin cá nhân của học sinh và giáo viên trong môi trường trực tuyến. Điều này bao gồm việc cài đặt các biện pháp bảo mật cho dữ liệu và đào tạo về an toàn thông tin.
(6) Kết nối với học sinh và phụ huynh. Sử dụng các kênh truyền thông trực tuyến để kết nối với học sinh và phụ huynh, cung cấp thông tin về lịch học, bài giảng và tiến độ học tập.
(7) Thúc đẩy học tập từ xa. Phát triển các khóa học trực tuyến và tài liệu học tập để hỗ trợ học sinh tự học và học tập từ xa khi cần thiết, đặc biệt trong các tình huống như dịch bệnh hoặc khi học sinh không thể tham gia lớp học truyền thống.
(8) Tạo cơ hội học tập đa dạng. Sử dụng công nghệ số để cung cấp cho học sinh cơ hội học tập đa dạng, bao gồm học tập theo dự án, khám phá khoa học, và thực hành bằng các phương tiện đa phương tiện.
(9) Tạo điều kiện cho học hỏi xã hội. Khuyến khích học sinh tham gia vào các diễn đàn trực tuyến, nhóm thảo luận, và dự án hợp tác để tạo cơ hội học hỏi xã hội và trao đổi kiến thức.
(10) Theo dõi và đánh giá hiệu suất. Sử dụng công nghệ số để thu thập dữ liệu về hiệu suất học tập và đánh giá kết quả học tập của học sinh, từ đó điều chỉnh quá trình giảng dạy và học tập để tối ưu hóa chất lượng giáo dục.
Tóm lại, chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam là một quá trình phức tạp và cần sự cam kết từ Chính phủ, trường học, giáo viên và phụ huynh để bảo đảm hoạt động giảng dạy và học tập có thể tận dụng được tiềm năng của công nghệ số.
PV: Theo ông, giáo dục Việt Nam đối diện với các thuận lợi và khó khăn nào trong quá trình số hóa?
PGS.TS Nguyễn Tiến Đông: Chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam mang lại nhiều thuận lợi và cơ hội nhưng cũng đối diện với nhiều khó khăn và thách thức, cụ thể:
Về thuận lợi.
Thứ nhất, mở rộng tiếp cận giáo dục. Chuyển đổi số giúp mở rộng tiếp cận giáo dục đối với những người ở các vùng hẻo lánh và xa xôi cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập từ xa.
Thứ hai, tăng cường tương tác và học tập đa dạng. Công nghệ số cung cấp cơ hội tương tác và học tập đa dạng qua video học tập, diễn đàn trực tuyến, và các tài liệu giảng dạy tương tác.
Thứ ba, nâng cao chất lượng giảng dạy. Giáo viên có thể sử dụng công cụ số để làm cho bài giảng trở nên thú vị hơn và hiệu quả hơn, cung cấp giải thích bằng hình ảnh, video…
Thứ tư, tối ưu hóa việc đánh giá học tập. Công nghệ số cho phép tự động hóa việc đánh giá và cung cấp phản hồi nhanh chóng cho học sinh, giúp họ cải thiện kết quả học tập.
Thứ năm, tiết kiệm tài nguyên và chi phí. Sử dụng tài liệu số và học tập trực tuyến có thể giảm bớt sử dụng giấy và giảm chi phí in ấn, vận chuyển và lưu trữ tài liệu giảng dạy.
Về khó khăn:
Một là, sự bất đồng về tiếp cận công nghệ. Một số khu vực, đặc biệt là ở nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi chưa có tiếp cận tốt đến internet và thiết bị công nghệ số, tạo ra khoảng cách số hóa.
Hai là, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Để tận dụng được chuyển đổi số, giáo viên cần được đào tạo về việc sử dụng công nghệ và phát triển kỹ năng số hóa và điều này đòi hỏi đầu tư và thời gian.
Ba là, vấn đề bảo mật và quyền riêng tư. Chuyển đổi số đặt ra vấn đề về bảo mật thông tin cá nhân của học sinh và giáo viên. Cần có các biện pháp bảo mật mạnh mẽ để bảo đảm an toàn thông tin.
Bốn là, quản lý dữ liệu. Với lượng dữ liệu số lớn, việc quản lý và lưu trữ dữ liệu trở nên phức tạp hơn. Hệ thống phải bảo đảm dữ liệu được lưu trữ và sử dụng một cách an toàn và hiệu quả.
Năm là, chất lượng nội dung số. Việc tạo ra và chia sẻ nội dung số chất lượng có thể là một thách thức, và không phải tất cả tài liệu số đều phù hợp cho việc giảng dạy và học tập.
Sáu là, thách thức về tương tác và động viên học tập. Học tập từ xa và sử dụng công nghệ số có thể làm hạn chế tương tác thực giữa giáo viên và học sinh cũng như thiếu sự động viên trong quá trình học.
Chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam là một quá trình dài hạn và để tận dụng được toàn bộ tiềm năng của nó, cần phải giải quyết các thách thức và bảo đảm rằng không ai bị bỏ lại phía sau trong cuộc cách mạng số hóa giáo dục.
PV: Xin Phó giáo sư cho biết, nhân tố nào quyết định thành công cũng như đâu là rào cản lớn nhất đối với chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam hiện nay?
PGS.TS Nguyễn Tiến Đông: Nhân tố quan trọng nhất quyết định cho sự thành công của quá trình chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam có thể xem là nguồn nhân lực. Bởi, giáo viên là những người chủ chốt trong quá trình chuyển đổi số. Họ cần được đào tạo để hiểu và sử dụng hiệu quả công nghệ số trong giảng dạy và học tập. Phát triển kỹ năng số hóa cho giáo viên là quan trọng để họ có thể thích nghi với thay đổi và tận dụng tiềm năng của công nghệ số. Ngoài việc đào tạo, việc tạo động lực cho giáo viên để họ tham gia tích cực vào quá trình chuyển đổi số cũng quan trọng. Điều này có thể thông qua việc thúc đẩy việc chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, tạo cơ hội phát triển sáng tạo và nghiên cứu, và công nhận thành tích của họ trong việc sử dụng công nghệ số.
Bên cạnh đó, việc xây dựng một đội ngũ nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng về công nghệ số trong các vị trí quản lý giáo dục và phát triển chính sách giúp bảo đảm quá trình chuyển đổi số được hướng dẫn và quản lý một cách hiệu quả. Ngoài ra, sự hợp tác giữa giáo viên, học sinh, phụ huynh và các nhóm liên quan khác cũng rất quan trọng. Cần tạo điều kiện và xây dựng môi trường làm việc hỗ trợ lẫn nhau để tận dụng tiềm năng của công nghệ số trong giáo dục. Chuyển đổi số trong giáo dục đòi hỏi tư duy sáng tạo và khả năng thích nghi với sự thay đổi. Nguồn nhân lực cần được khuyến khích để tạo ra các giải pháp sáng tạo và đối mặt với thách thức một cách linh hoạt. Phản hồi liên tục từ học sinh và giáo viên cũng giúp cải thiện quá trình chuyển đổi số.
Tóm lại, dù có sự phát triển của hạ tầng công nghệ và các tài liệu số, nhưng nguồn nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong chuyển đổi số giáo dục Việt Nam. Đầu tư vào đào tạo, phát triển, và động viên nguồn nhân lực giúp tạo điều kiện cho một cuộc cách mạng số hóa giáo dục thành công.
Chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam đối diện với một số rào cản và yếu tố trở ngại quan trọng, bao gồm:
Thứ nhất là kết nối internet và cơ sở hạ tầng công nghệ. Mặc dù có sự phát triển đáng kể, nhưng việc cung cấp kết nối internet đủ mạnh và ổn định đến tất cả các vùng, miền vẫn còn là một thách thức lớn. Nếu học sinh và giáo viên bị hạn chế đường truyền truy cập internet và hạ tầng công nghệ, việc triển khai chuyển đổi số sẽ gặp khó khăn.
Thứ hai là đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo giáo viên và các nguồn nhân lực liên quan về việc sử dụng công nghệ số và phát triển kỹ năng số hóa là một yếu tố trở ngại quan trọng. Nhiều giáo viên vẫn cảm thấy không tự tin hoặc không biết cách sử dụng công nghệ một cách hiệu quả trong giảng dạy. Để bảo đảm thành công, cần có sự đầu tư đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ liên tục cho họ.
Ngoài ra, còn có một số rào cản và thách thức khác, như: vấn đề bảo mật và quyền riêng tư, khả năng quản lý dữ liệu số, tạo nội dung số chất lượng; vấn đề tài chính để đầu tư vào công nghệ và hạ tầng kỹ thuật. Để vượt qua các trở ngại này, cần có sự cam kết và hỗ trợ từ Chính phủ, ngành Giáo dục và các cơ quan chức năng liên quan. Cần thiết phải có chiến lược chuyển đổi số toàn diện và dài hạn, bảo đảm rằng tất cả các yếu tố quan trọng được xem xét và giải kịp thời nhằm giúp quá trình chuyển đổi số trong giáo dục được triển khai thông suốt và hiệu quả.
PV: Từ kinh nghiệm của các cơ sở đào tạo Việt Nam đã và đang thực hiện chuyển đổi số có thể rút ra được bài học cho chuyển số trong giáo dục Việt Nam trong thời gian tới?
PGS.TS Nguyễn Tiến Đông: Từ việc cá nhân tham dự vào các dự án chuyển đổi số trong các cơ sở đào tạo, tôi nhận thấy một số xu hướng chuyển đổi số đang được thực hiện như sau:
Một là, chuyển đổi số theo hướng chuyển đổi số quản trị – tự xây dựng và phát triền các phần mềm và các phân hệ hỗ trợ quản lý cho người học, giáo viên, khối quản lý đào tạo. Việc này dựa trên điểm mạnh về công nghệ phần mềm, phần cứng của chính các cơ sở đào tạo có thế mạnh về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Xu hướng này diễn ra ở các cơ sở đào tạo đại học là chủ yếu.
Hai là, chuyển đổi số theo hướng ứng dụng công nghệ và phần mềm. Đó là, mua các sản phẩm số có sẵn, gồm cả hệ thống quản lý học tập (LMS) và nội dung (content) học liệu, để triển khai việc dạy và học, sau đó tiến hành thí điểm để lựa chọn các sản phẩm phù hợp nhất.
Ba là, chuyển đổi số theo cả hai cách trên đây. Hướng này được các các sở ngoài công lập áp dụng nhiều vì đối với cơ sở giáo dục này, việc đầu tư phát triển phần mềm quản lý đào tạo, cộng với hệ thống quản lý học tập (LMS) và xây dựng các nội dung đào tạo (content) là điều “bắt buộc” phải làm để đạt các hiệu quả tối ưu trong vận hành và đạt được các mục tiêu giáo dục.
Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay các cơ sở đào tạo trong quá trình chuyển đổi số tập trung nhiều vào xây dựng hạ tầng kỹ thuật mà chưa tiến hành đồng bộ các nội dung chuyển đổi số, cũng như việc thực hiện chuyển đổi số theo hướng “mạnh ai nấy làm” mà chưa có sự liên kết có hệ thống giữa các cơ sở đào tạo hoặc trong ngành. Thêm vào đó, yếu tố cốt lõi nhất để thực hiện công tác đào tạo là nguồn lực con người, ở đây chủ yếu là đội ngũ giáo viên thì lại chưa được đặt đúng vị trí trong quá trình chuyển đổi số. Việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về công nghệ và chuyển đổi số vừa yếu, thiếu và không đồng bộ dẫn tới việc chưa có nhận thức đúng và đầy đủ về ý nghĩa, vai trò và nội dung của chuyển đổi số. Điều đó dẫn tới cách làm “nửa vời” trong chuyển đổi số, gây ảnh hưởng tới mục tiêu giáo dục đề ra. Ngoài ra, nội dung đào tạo đóng vai trò nền tảng cơ bản trong đào tạo thì lại chưa được chú trọng đúng mức. Theo tôi, hướng phát triển thứ ba như trên là một hướng chuyển đổi số đã khắc phục được hạn chế này.
PV: Trân trọng cảm ơn Phó giáo sư đã dành thời gian cho buổi phỏng vấn! Chúc Phó giáo sư sức khỏe, hạnh phúc, tiếp tục dành nhiều tâm lực cho công cuộc chuyển đổi số ở Việt Nam.