Nhận thức và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh vì sự phát triển xã hội bền vững

(Quanlynhanuoc.vn) – Dân chủ là một trong những tư tưởng đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với dân tộc và nhân loại. Chính vì vậy, bài viết khái quát quan điểm của Người về dân chủ và thực hành dân chủ và nêu lên một số thực trạng, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa trong nhận thức và thực hành dân chủ vì sự phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc (13/9/1958). Ảnh tư liệu.
Đặt vấn đề

Dân chủ và thực hành dân chủ đã được nhiều nhà tư tưởng, nhiều nhà lý luận quan tâm đề cập, trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều quan điểm đặc sắc về dân chủ và thực hành dân chủ trong xây dựng Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quan điểm của Người đã được Đảng và Nhân dân ta tiếp tục phát triển trong thực tiễn và xem “dân chủ” là một trong những mục tiêu cao nhất của cách mạng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đất nước, có những lúc, có những nơi chưa xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân mà xuất phát từ lợi ích của cá nhân, lợi ích nhóm. Người có chức, có quyền ở một số cơ quan, đơn vị thường lợi dụng quyền lực của mình để ra những quyết định vi phạm nguyên tắc dân chủ nghiêm trọng… gây nên những bức xúc, bất bình, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ theo quan điểm của Người trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm góp phần phát triển xã hội Việt Nam ngày càng bền vững.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ: kế thừa những giá trị của các bậc tiền bối, tổng kết lý luận và thực tiễn của thời đại, dựa vào điều kiện cụ thể của nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan niệm sâu sắc về dân chủ trên các khía cạnh cơ bản. (1) Dân chủ là một giá trị nhân loại chung; (2) Dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội.

Thứ nhất, khi xem dân chủ là một giá trị xã hội mang tính toàn nhân loại, Người khẳng định: “Dân là chủ và dân làm chủ”. Dân là chủ có nghĩa là khẳng định địa vị của Nhân dân trong toàn xã hội, là chủ xã hội, là chủ của đất nước, Nhân dân là chủ thể của quyền lực. Đây là một trong những tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phản ánh vị trí cao nhất, chung nhất của dân chủ, dân chủ là quyền lực thuộc về Nhân dân. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”1.

Theo Người, bên cạnh địa vị “là chủ” của mình thì Nhân dân cũng có nghĩa vụ và trách nhiệm “làm chủ” đối với xã hội. Người cho rằng, “Nước ta là nước dân chủ”, có nghĩa là nước nhà do Nhân dân làm chủ. Người khẳng định: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ”2. Tuy nhiên, không phải lúc nào dân cũng “làm chủ” mà chỉ khi nào dân đủ năng lực “làm chủ” và “làm chủ” tự giác, tự nguyện, bảo đảm tính khách quan thì dân mới thực sự “là chủ”, nếu không “dân là chủ” chỉ mang tính hình thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng căn dặn “dân làm chủ” thì không được ỷ lại, không được trông chờ vào sự giúp đỡ của Đảng và Chính phủ, sự giúp đỡ chỉ là phụ, Nhân dân mới là lực lượng nòng cốt. Bên cạnh trách nhiệm “làm chủ”, người dân còn có nghĩa vụ tự đấu tranh chống lại các hiện tượng phản dân chủ, dân chủ hình thức, điều đó chính là sự thể hiện thước đo năng lực, trình độ giác ngộ, trình độ chính trị của Nhân dân.

Quan niệm “dân là chủ” và “dân làm chủ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa ngắn ngọn vừa hết sức độc đáo. Tính độc đáo biểu hiện ở chỗ Người luôn coi trọng vai trò của Nhân dân, luôn đặt Nhân dân lên vị trí hàng đầu, lên vị trí cao nhất trong xã hội. Theo quan điểm của Người, “dân chủ phải được thực hiện một cách toàn diện, thực hiện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, tuy nhiên, hai lĩnh vực dân chủ quan trọng nhất đó là kinh tế và chính trị. Thực hiện được dân chủ trong hai lĩnh vực này thì mới góp phần thực hiện dân chủ trong các lĩnh vực khác, đồng thời cũng là thể hiện quyền con người và quyền công dân”3.

Thứ hai, khi dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”4, mọi chủ trương, đường lối của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Người khẳng định, “Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”5.

Người khẳng định Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính Nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Quan niệm của Người về một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả phải là một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ và sáng suốt. Bên cạnh đề cao nhà nước pháp quyền của dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn coi trọng công tác tuyển chọn cán bộ, rèn luyện cán bộ, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ trong quản lý xã hội. Kết hợp chặt chẽ pháp quyền và đạo đức trong xây dựng nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Về thực hành dân chủ: là một trong những nội dung có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống xã hội, do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”6. Quan điểm về dân chủ và thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vậy, cần gắn kết giữa lý luận dân chủ và thực hành dân chủ, có như vậy mới đi vào thực chất, mới mang lại hiệu quả cao trong phát triển đất nước. Theo Người, dân chủ phải được mở rộng và thực hiện trong Nhân dân là một trong những chính sách thúc đẩy có hiệu quả nhất đối với quá trình phát triển xã hội, bởi vì, đây là lợi ích cao nhất mà mọi người đều mong muốn thực hiện trong thực tiễn. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”7. Việc đề cao thực hành dân chủ giúp mọi người dân hăng hái làm việc, tôn trọng những đóng góp sức lực của Nhân dân, góp phần kích thích tính tích cực, sáng tạo của người dân, bảo đảm quyền tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ trong xây dựng xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, quyền dân chủ luôn gắn liền với lợi ích của toàn dân, lợi ích là một trong những động lực kích thích người dân tích cực lao động, sáng tạo và xây dựng xã hội. Người khẳng định: “Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng. Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.”8. Như vậy, thực hành dân chủ “toàn dân, toàn diện” là điều kiện quan trọng để phát huy sức mạnh, phát huy sự cống hiến, sáng tạo của toàn thể Nhân dân vào xây dựng Nhà nước. Song để xây dựng được “nhà nước của dân, do dân, vì dân” thì không thể thiếu vai trò đại diện của Đảng Cộng sản. Đảng là người vạch ra đường lối, chiến lược, kế hoạch để cùng Nhân dân hướng đến các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để Đảng là người lãnh đạo thành công trong xây dựng nền dân chủ XHCN, Đảng phải thu phục được người tài, phải công tâm, khách quan, tôn trọng sự thật, thật sự trong sạch, là người đầy tớ trung thành với Nhân dân. Đảng là người đi đầu, là tấm gương trong việc thực hành dân chủ, phải nghiêm khắc phê bình và tự phê bình một cách nghiêm túc, không hình thức, qua loa, Đảng phải thường xuyên học tập và nâng cao trình độ, rèn luyện bản lĩnh, đạo đức, tác phong của người lãnh đạo… có như vậy mới góp phần xây dựng thành công “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”.

Như vậy, dân chủ đã được Hồ Chí Minh đề cập trên nhiều phương diện, dân chủ vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa với tư cách một tổ chức, một chế độ nhà nước. Dân chủ và thực hành dân chủ theo quan điểm của Người là một trong những mục tiêu, động lực phát huy sự sáng tạo, sức mạnh, đại đoàn kết toàn dân, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, từng bước xây dựng đất nước phát triển bền vững. Do vậy, Người đã từng nói “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”9.

Thực trạng nhận thức và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay

Một là, thành tựu trong nhận thức về dân chủ. Trước thời kỳ đổi mới mặc dù chưa nhận thức đầy đủ về dân chủ do điều kiện kinh tế – xã hội, đất nước bị chiến tranh, chia cắt, tuy nhiên, Đảng và Nhân dân đã luôn có sự kế thừa, tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ để từng bước xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ đổi mới (năm 1986) Đảng đã có những thay đổi nhận thức về dân chủ, đặc biệt vai trò của Nhân dân. Đảng ta khẳng định: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”10. Khẳng định vị trí, vai trò của Nhân dân trong xã hội, dân là gốc, là trụ cột, là xuất phát điểm để ban hành các chính sách, các kế hoạch có lợi cho Nhân dân. Chính vì vậy, sau đổi mới chúng ta đã giặt hải được nhiều thành công trong phát triển kinh tế – xã hội. Đến Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”11.

Đến Đại hội IX (năm 2001), sau 15 năm thực hiện đổi mới, lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng đã đưa “dân chủ” vào mục tiêu phát triển của đất nước. Đại hội khẳng định: “Độc lập dân tộc gắn liềnvới chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh12. Nhận thức về dân chủ tiếp tục được mở rộng và phát triển thông qua Đại hội X (2006) của Đảng đã mở rộng khái niệm dân chủ từ chỗ “do nhân dân lao động làm chủ” thành “do nhân dân làm chủ”, mang tính bao quát toàn thể nhân dân làm chủ. Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng đưa vị trí “dân chủ” lên trước “công bằng” trong mục tiêu phát triển đất nước, điều này nhằm khẳng định vị trí, vai trò của dân chủ… Đến Đại hội XII (năm 2016), XIII (năm 2021), vấn đề dân chủ đã trở thành một trong những nội dung được bàn luận kỹ hơn, sâu sắc hơn, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, xây dựng hoàn thiện thể chế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Nhờ sự lãnh đạo của Đảng, nhận thức về dân chủ trong các cơ quan nhà nước và trong đời sống xã hội cũng từng bước được nâng lên. Người dân thấy được vị trí vai trò của mình trong xã hội, đa số các chính sách của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích chính đáng của Nhân dân, tôn trọng quyền của Nhân dân, lấy dân làm gốc.

Hai là, trong thực hành dân chủ. Đảng không ngừng lắng nghe ý kiến đóng góp của Nhân dân để ngày càng hoàn thiện xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các thông tin liên quan đến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng được công khai ngày càng rộng rãi, được tuyên truyền đến mọi tầng lớp Nhân dân, thể hiện tinh thần dân chủ, minh bạch, ngày càng nâng cao nhận thức cho Nhân dân về quyền và nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó, Đảng cũng thực hiện nhiều chính sách để giảm hiện tượng “cha truyền con nối”, “con vua rồi lại làm vua” trong các cơ quan, bộ máy nhà nước. Ngày 11/7/2023 Bộ chính trị đã ban hành Quy định số 114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng để hạn chế thấp nhất sự lồng quyền, chuyên quyền của một số cơ quan, đơn vị cũng như giảm thiểu dân chủ hình thức, thiếu khách quan.

Bên cạnh đó, Nhà nước thực hiện nhiều chính sách để phát huy dân chủ như công khai các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, người dân dễ dàng tiếp cận các thông tin về quy hoạch, về sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, thông tin về các cơ quan, đơn vị, các số liệu thống kê hằng năm được công khai trên mạng internet… Chính điều này đã góp phần để Nhân dân giám sát, góp ý nếu thấy những vấn đề chưa hợp lý, từ đó Nhà nước kịp thời chấn chỉnh vì sự phát triển xã hội bền vững.

Hơn nữa, trong đời sống xã hội, dân chủ được thể hiện rộng rãi thông qua việc người dân được quyền tham gia góp ý, bàn bạc xây dựng quê hương, đất nước, khi nhà nước có chủ trương thực hiện các chính sách liên quan đến đời sống của Nhân dân. Người dân tham gia góp ý xây dựng nông thôn mới, xây dựng Đảng, chính quyền các cấp, tham gia giám sát các hoạt động tại địa phương. Nhìn chung dân chủ không ngừng được mở rộng trong các lĩnh vực, trong chính trị, trong kinh tế, trong tư tưởng văn hoá và thực hiện trong thực tế ngày càng đi vào thực chất, phát huy được sức mạnh, sáng tạo trong các tầng lớp nhân dân, nó trở thành động lực quan trọng trong xây dựng và phát triển xã hội bền vững.

Như vậy, nhận thức và thực hành dân chủ đã được Nhà nước và Nhân dân ta nhìn nhận và thực hành ngày càng toàn diện trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình nhận thức và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay đang có những hạn chế nhất định.

Một là, hạn chế về nhận thức. Nhìn chung vẫn còn những cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về dân chủ, chưa xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, chưa phát huy sức mạnh của tập thể, của các chuyên gia, các nhà khoa học. Do vậy, việc chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, học tập làm theo tấm gương đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ của một số cán bộ đảng viên còn bị xem nhẹ.

Hệ thống pháp luật về dân chủ ở một số lĩnh vực chưa được hoàn thiện, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã nảy sinh nhiều hình thức kinh tế mới, kinh tế tri thức, kinh tế số. Nhiều chủ thể tham gia thị trường đã lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để phục vụ lợi cho cá nhân, cho nhóm của mình, mà xem nhẹ lợi ích chung của người dân, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến phát triển nền kinh tế bền vững. Bên cạnh đó, nhận thức về dân chủ của người dân cũng còn những hạn chế nhất định, do trình độ dân trí chưa cao, cách tiếp cận các thông tin để thực hiện vai trò làm chủ của mình chưa kịp thời, thậm chí nhiều thông tin khó tiếp cận do thiếu công khai minh bạch dẫn đến vai trò giảm sát, phản biện của Nhân dân chưa được như mong muốn,…

Hai là, hạn chế về thực hành dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng góp phần giải quyết mọi khó khăn.

Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, việc thực hành dân chủ theo quan điểm của Người vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, biểu hiện qua một số điểm cơ bản sau:

(1) Công tác tư tưởng trong Đảng còn những hạn chế, một số đảng viên có tư tưởng lộng quyền, sử dụng quyền lực để phục vụ cho lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, xem nhẹ lợi ích tập thể. Đảng là đầu tàu gương mẫu, đi đầu trong thực hiện dân chủ, song không ít trường hợp đảng viên còn xem nhẹ thực hành dân chủ tại cơ quan, đơn vị, xem nhẹ dân chủ cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất, chủ yếu kiểm tra trên hồ sơ giấy tờ, do vậy, nhiều vụ việc được phát hiện, lên án, phản ánh không phải từ cấp uỷ đảng mà chủ yếu từ quần chúng nhân dân hoặc từ các cơ quan báo chí…

(2) Trong cơ quan quản lý nhà nước, tình trạng lộng quyền, chuyên quyền, bè phải, cục bộ địa phương vẫn còn tồn tại. Hơn nữa, còn có hiện tượng “cha truyền con nối”, lợi ích nhóm tiêu cực, điều đó dẫn đến việc đề bạt, bổ nhiệm một số vị trí thiếu tiêu chuẩn đã bị dư luận xã hội lên án, làm ảnh hưởng đến quá trình xây dựng xã hội theo hướng bền vững.

(3) Trong xã hội việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất, quyền làm chủ của Nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội13. Bên cạnh đó, vai trò giảm sát của Nhân dân trong thực hành dân chủ còn mờ nhạt do thiếu các thông tin hoặc thông tin đến với Nhân dân chưa đầy đủ, kịp thời,…

Nhìn chung nhận thức và thực hành dân chủ theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, những hạn chế này cần có những giải pháp thích hợp nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ trong toàn xã hội, để góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam đoàn kết, hài hoà và bền vững.

Một số giải pháp nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm góp phần phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay

Để xã hội phát triển bền vững thì cần nhiều giải pháp đồng bộ khác nhau, trong đó phát huy dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi trong Nhân dân, coi trọng Nhân dân, “lấy dân làm gốc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những giải pháp cơ bản góp phần xây dựng xã hội hài hòa đoàn kết và bền vững. Vì vậy để thực hành dân chủ theo tư tưởng của Người, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản như sau:

Một là, nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ trong Đảng. Đảng là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của Nhân dân, là người vạch ra đường lối, chủ trương chính sách để Nhân dân thực hiện những quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, trước hết Đảng phải không ngừng nâng cao trình độ nhận thức của mình, phải luôn “lấy dân làm gốc”, mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của Nhân dân. Thực hiện dân chủ trong Đảng cần gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, từng bước hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực của người đứng đầu, xử lý nghiêm minh những vi phạm về mất tập trung dân chủ, hoặc dân chủ hình thức.

Hai là, nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ trong nhà nước. Trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cần phải xóa bỏ tình trạng lộng quyền, lợi dụng quyền lực trong thực hiện nhiệm vụ. Người đứng đầu tổ chức phải luôn lắng nghe ý kiến phản biện từ xã hội, đặc biệt từ các nhà khoa học, các chuyên gia. Xây dựng hệ thống pháp luật công bằng, bình đẳng nhằm bảo đảm thực thi dân chủ một cách thực chất. Tuyển chọn người cán bộ có tài, có đức, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo. Thực hành dân chủ cơ sở đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, cung cấp kịp thời, chính xác thông tin đến với quần chúng nhân dân. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân vì dân”.

Ba là, nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Để xây dựng xã hội “dân là chủ, dân làm chủ” theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì cần phải từng bước tuyên truyền nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân. Dân trí càng cao thì người dân thực hiện quyền làm chủ của mình càng khách quan và thực chất. Để nâng cao dân trí cần phải đẩy mạnh giáo dục – đào tạo, học thực chất, thi thực chất, không ngừng phổ biến kiến thức rộng rãi trong Nhân dân. Khi Nhân dân nắm được kiến thức đúng đắn, khoa học thì sẽ có những nhìn nhận khách quan đúng đắn, góp phần xây dựng xã hội phát triển bền vững.

Bốn là, bên cạnh thực hiện quyền làm chủ của mình, thì người dân cũng phải có nghĩa vụ và trách nhiệm làm chủ đối với xã hội. Làm chủ phải thực hiện đúng nghĩa vụ công dân, đạo đức công dân, cần kiệm liêm chính; phải chủ động chăm lo vun vén cho lợi ích chung của xã hội; phải luôn tự mình làm chủ trong phát triển kinh tế – xã hội. Dân làm chủ thì còn có nghĩa vụ đấu tranh chống lại các thể lực thù địch chống phá chia rẽ đoàn kết, mất dân chủ trong xã hội thì mới góp phần phát triển xã hội bền vững.

Như vậy, dân chủ và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xã hội hiện nay của nước ta là nhu cầu tất yếu khách quan, nhằm mang lại những lợi ích thiết thực cho Nhân dân. Phát huy được tính năng động sáng tạo của quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Nhờ vậy, góp phần xây dựng xã hội phát triển bền vững trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.

Chú thích
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 434.
2, 4. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 263, 263.
3. Phạm Văn Đức. Thực hành dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2017, tr. 32.
4. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 572.
5. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 95.
6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 284.
7. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 374.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 325.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập. Tập 47. H. NXB Chính trị quốc gia, 2006, tr. 362.
10. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991. https://dangcongsan.vn, ngày 25/11/2019.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng Toàn tập. Tập 60. H. NXB Chính trị quốc gia, 2016, tr. 131.
12. Dân chủ và thực trạng thực hiện dân chủ những năm qua. https://hdll.vn, ngày 09/10/2019.
TS. Hồ Công Đức
Trường Đại học Thương mại